HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC |
|
|
Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 1989 |
PHÁP LỆNH
Thi hành án
dân sự
Để bảo đảm hiệu
lực của bản án, quyết định về dân sự của Toà án; bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; góp phần tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa;
Căn cứ vào Điều
100 và Điều 137 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Pháp lệnh này
quy định việc thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Toà án.
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1: Những
bản án, quyết định về dân sự của Toà án.
Những bản án,
quyết định về dân sự của Toà án nói trong Pháp lệnh này bao gồm những bản án,
quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, các quyết định về tài sản
trong các bản án hình sự, các bản án và quyết định khác do pháp luật quy định.
Điều 2: Bảo đảm
hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án.
Bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được các đương sự nghiêm chỉnh thi
hành, các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân tôn
trọng.
Điều 3: Những
bản án, quyết định được thi hành.
Những bản án,
quyết định được thi hành theo Pháp lệnh này bao gồm:
1- Những bản án,
quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật:
a) Bản án, quyết
định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm;
b) Bản án, quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm;
c) Bản án, quyết
định của Toà án cấp phúc thẩm;
d) Quyết định của
Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
đ) Bản án, quyết
định của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận.
2- Những bản án,
quyết định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay:
a) Bản án, quyết
định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm
việc hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của công dân mà Toà án
cho thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị;
b) Quyết định khẩn
cấp tạm thời để bảo đảm lợi ích cấp thiết của đương sự hoặc bảo đảm cho việc
xét sử và thi hành án.
Điều
4: Thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
1- Chánh án Toà án
đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án hoặc uỷ thác cho Chánh án Toà án nơi
người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến việc thi
hành án, ra quyết định thi hành.
Đối với bản án,
quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao
ra quyết định giao cho Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi người phải thi
hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án, ra
quyết định thi hành. Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh có thể uỷ thác cho Chánh
án Toà án nhân dân cấp dưới nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có
tài sản liên quan đến việc thi hành án, ra quyết định thi hành.
2- Chánh án Toà án
quân sự có thể uỷ thác cho Chánh án Toà án nhân dân nơi người phải thi hành án
cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án, ra quyết định
thi hành đối với dân thường bị xét xử tại Toà án quân sự hoặc đối với người
phải thi hành án là cán bộ, chiến sĩ Lực lượng an ninh nhân dân hoặc Quân đội
nhân dân bị toà án quân sự xét xử mà không còn ở trong lực lượng vũ trang nhân
dân.
3- Toà án nhận uỷ
thác có nhiệm vụ thực hiện uỷ thác và thông báo kết quả thi hành án cho Toà án
đã uỷ thác.
Điều 5: Biện pháp
thi hành án.
Khi bản án, quyết
định của toà án được đưa ra thi hành thì người phải thi hành án có nghĩa vụ tự
nguyện thi hành; nếu không tự nguyện thi hành thì chấp hành viên áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành.
1- Chính quyền địa
phương các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối
hợp với Toà án nhân dân trong việc tổ chức thi hành án.
2- Lực lượng Cảnh
sát nhân dân có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, ngăn chặn những hành vi cản trở,
chống đối việc cưỡng chế thi hành án theo yêu cầu của Chánh án Toà án nhân dân
hoặc của chấp hành viên.
3- Cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hữu quan trong phạm vi chức năng, nhiệm
vụ của mình và công dân có trách nhiệm giúp đỡ, thực hiện yêu cầu của chấp hành
viên trong việc thi hành án.
Điều 7 :Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên
quan đến việc thi hành án.
Người có quyền,
lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án được tham gia vào việc thi hành
án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 8: Kiểm
sát việc thi hành án.
Việc kiểm sát nhân
dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, Toà án, cơ quan Nhà nước
khác, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan đến việc thi hành
án, nhằm bảo đảm các bản án, quyết định của Toà án được thi hành đúng pháp
luật, đầy đủ, kịp thời theo quy định tại các điều 15, 16 và 17 của Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân.
Chương II
CHẤP HÀNH VIÊN
Điều 9: Chấp
hành viên.
Chấp hành viên là
người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án
quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh này.
Điều 10: Nhiệm
vụ, quyền hạn của chấp hành viên.
Chấp hành viên có
các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1- Triệu tập đương
sự, người có liên quan đến trụ sở Toà án hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi thi hành án để thực hiện việc thi hành án;
2- Định cho người
phải thi hành án thời hạn không quá một tháng để tự nguyện thi hành;
3- áp dụng các
biện pháp cưỡng chế quy định tại Chương IV của Pháp lệnh này;
4- Yêu cầu chính
quyền địa phương, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, cá nhân có
liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi
hành án hoặc phối hợp xử lý tang vật, tài sản và những việc khác có liên quan
đến việc thi hành án;
5- Đề nghị Chánh
án Toà án nơi chấp hành viên công tác ra quyết định hoãn thi hành án, tạm đình
chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án, trả lại đơn yêu cầu thi hành án hoặc
phạt tiền người cố tình không thi hành án;
6- Yêu cầu Toà án
đã ra bản án hoặc quyết định giải thích những điểm chưa rõ để thi hành;
7- Lập biên bản về
hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành án và đề nghị cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc khởi tổ vụ án hình sự đối với
người vi phạm.
Chấp hành viên
phải thi hành bản án, quyết định của Toà án đúng pháp luật và chịu trách nhiệm
về hành vi trái pháp luật của mình.
Điều 11: Bổ
nhiệm, miễn nhiệm chấp hành viên.
Người có phẩm chất
chính trị, trung thực, khách quan, có kiến thức pháp lý cần thiết và nắm vững
nghiệp vụ thi hành án, có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa thì có thể
được bổ nhiệm làm chấp hành viên.
Việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ tư pháp quyết định, theo đề nghị của
Chánh án Toà án nhân dân địa phương.
Điều 12: Chế độ
đối với chấp hành viên.
Chấp hành viên
được cấp trang phục, phù hiệu, thẻ chấp hành viên để sử dụng khi làm nhiệm vụ
và được hưởng thang bậc lương riêng theo quy định của Hội đồng bộ trưởng.
Chương III
THỦ TỤC THI HÀNH ÁN
Điều 13: Căn cứ
để thi hành án.
Khi bản án, quyết
định của Toà án được thi hành thì Toà án đã tuyên bản án hoặc ra quyết định đó
phải cấp cho người được thi hành án và người phải thi hành án bản trích lục bản
án hoặc quyết định có ghi: "để thi hành".
Điều 14: Quyền
yêu cầu thi hành án.
Người được thi
hành án căn cứ vào bản trích lục bản án, quyết định có quyền yêu cầu người phải
thi hành án thi hành.
Nếu người phải thi
hành án không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án có quyền gửi đơn
đến Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm hoặc sở thẩm đồng thời là chung thẩm vụ án để
yêu cầu thi hành án, Bản trích lục bản án, quyết định của Toà án phải được gửi
kèm theo đơn yêu cầu thi hành án.
Điều 15: Chánh
án Toà án chủ động ra quyết định thi hành án.
Những bản án,
quyết định được Chánh án Toà án chủ động ra quyết định thi hành bao gồm:
1- Bản án, quyết
định nói tại khoản 2 Điều 3 của Pháp lệnh này;
2- Bản án, quyết
định về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa,
phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí.
Điều
16: Thời hiệu thi hành án.
1- Trong thời hạn
ba năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành
án là công dân có quyền gửi đơn đến Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm hoặc sơ thẩm
đồng thời là chung thẩm vụ án để yêu cầu thi hành án. Trong thời hạn đó, nếu
người được thi hành án không yêu cầu thi hành thì bản án, quyết định hết hiệu
lực thi hành.
Thời hạn được tình
theo ngày Toà án nhận đơn, nếu đơn được trực tiếp đưa đến Toà án hoặc tính theo
ngày gửi ghi trên dấu bưu điện, nếu đơn gửi qua bưu điện.
Trong trường hợp
đơn yêu cầu thi hành án được trả lại theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh
này thì thời hạn ba năm được tính từ ngày trả lại đơn yêu cầu thi hành án.
Bản án, quyết định
thi hành theo định kỳ thì thời hạn ba năm tính từ ngày việc thi hành án bị
ngừng.
2- Trong thời hạn
một năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu cơ quan, tổ
chức được thi hành án không yêu cầu thi hành thì Toà án nộp tài sản thu được do
thi hành án vào ngân sách Nhà nước.
3- Trong trường
hợp người được thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan nên không thể
yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời hạn thi hành án được tính từ khi trở
ngại đó không còn.
Việc khôi phục
thời hiệu thi hành án do Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án xét và
quyết định.
Điều 17: Tự
nguyện thi hành án và cưỡng chế thi hành án.
1- Sau khi nhận
được quyết định thi hành án chấp hành viên định cho người phải thi hành án thời
hạn không quá một tháng để tự nguyện thi hành.
Trong trường hợp
cần ngăn chặn người phải thi hành án phân tán hoặc huỷ hoại tài sản thì chấp
hành viên quyết định kê biên ngay tài sản.
Nếu hết thời hạn
tự nguyện thi hành mà người phải thi hành án không thi hành thì chấp hành viên
ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại Chương IV của Pháp lệnh
này.
2-
Người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về việc cưỡng chế thi hành án.
3- Không được áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 6 giờ
sáng ngày hôm sau, trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án phân tán
hoặc huỷ hoại tài sản, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Điều 18: Hoãn
thi hành án.
1- Chánh án Toà án
đã ra quyết định thi hành án có quyền hoãn thi hành án trong những trường hợp
sau đây:
a) Người phải thi
hành án ốm nặng mà theo bản án, quyết định thì người đó có nghĩa vụ phải tự
mình thực hiện;
b) Người được thi
hành án yêu cầu hoặc đồng ý cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành;
c) Chưa xác định
được địa chỉ của người phải thi hành án.
Khi điều kiện hoãn
thi hành án đã hết, thì bản án, quyết định được tiếp tục thi hành.
Điều 19: Tạm
đình chỉ thi hành án.
2- Khi có một
trong những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 18 của Pháp lệnh này thì Chánh án
đã ra quyết định thi hành án có quyền tạm đình chỉ thi hành án cho đến khi điều
kiện tạm đình chỉ đã hết.
Điều 20: Đình
chỉ thi hành án.
Chánh án toà án đã
ra quyết định thi hành án có quyền đình chỉ việc thi hành trong những trường
hợp sau đây:
1- Người phải thi
hành án chết mà theo bản án, quyết định thì nghĩa vụ thực hiện không được
chuyển cho người thừa kế;
2- Người được thi
hành án chết mà quyền và lợi ích theo bản án, quyết định không được thừa kế;
3- Người được thi
hành án là cá nhân, tổ chức kinh tế tư nhân tự nguyện yêu cầu không thi hành án
nữa;
4- Bản án, quyết
định bị Toà án có thẩm quyền huỷ bỏ;
5- Thời hiệu yêu
cầu thi hành án đã hết.
Trong trường hợp
quy định tại điểm 3 Điều này, người được thi hành án sau đó không có quyền yêu
cầu thi hành án trở lại.
Điều
21: Trả lại đơn yêu cầu thi hành án.
Chánh án Toà án đã
ra quyết định thi hành án có quyền trả lại đơn yêu cầu thi hành án và bản trích
lục bản án hoặc quyết định cho người được thi hành án trong trường hợp có quyết
định đình chỉ việc thi hành án hoặc có căn cứ xác định người phải thi hành án
không có tài sản để thi hành án. Khi người phải thi hành án đã có điều kiện thi
hành thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định
trong thời hạn quy định tại Điều 16 của Pháp lệnh này.
Điều 22: Gửi
các quyết định về thi hành án.
Các quyết định thi
hành án, cưỡng chế thi hành án, hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án,
đình chỉ thi hành án, khôi phục thời hiệu thi hành án, phạt tiền, trả lại đơn
yêu cầu thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự, người
có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án.
Chương IV
CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHỄ THI HÀNH ÁN
Điều 23: Kê
biên tài sản.
1- Chấp hành viên
tiến hành kê biên tài sản của người phải thi hành án. Tài sản thuộc sở hữu
riêng được kê biên trước, sau đó kê biên phần tài sản thuộc sở hữu chung của
người phải thi hành án với người khác. Nếu có tranh chấp về tài sản giữa người
phải thi hành án với người khác thì Toà án đã ra quyết định thi hành án xác
định tài sản của người phải thi hành án theo thủ tục tố tụng dân sự.
2- Khi kê biên tài
sản phải có mặt người phải thi hành án hoặc người đã thành niên trong gia đình,
đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến. Người
được thi hành án được thông báo về thời gian, địa điểm kê biên tài sản và có
quyền có mặt khi kê biên tài sản. Nếu người được thi hành án vắng mặt hoặc
người phải thi hành án hay người đã thành niên trong gia đình cố tình vắng mặt
thì chấp hành viên vẫn tiến hành kê biên.
3- Chấp hành viên
chỉ kê biên tài sản của người phải thi hành án tương ứng với mức đủ để thi hành
án và thanh toán các chi phí về thi hành án.
Chấp hành viên
phải chấp nhận đề nghị của người phải thi hành án về việc kê biên tài sản nào
trước, nếu xét thấy đề nghị đó không trở ngại cho việc thi hành án.
Việc kê biên nhà ở
chỉ được tiến hành khi những tài sản khác của người phải thi hành án không đủ
để thi hành án.
Điều 24: Tài
sản không được kê biên.
Không được kê biên
những tài sản sau đây:
1- Lương thực,
thuốc men cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình;
2- Công cụ lao
động, quần áo, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho người phải thi hành
án và gia đình;
3- Đồ dùng thờ
cúng thông thường.
Điều 25: Định
giá tài sản đã kê biên.
1- Tài sản đã kê
biện được định giá tại chỗ theo sự thoả thuận giữa người được thi hành án và
người phải thi hành án.
Điều 26: Giao
bảo quản tài sản đã kê biên.
1- Nếu người được
thi hành án không đồng ý nhận tài sản đã kê biên để thi hành án thì chấp hành
viên giao tài sản đã kê biên cho người phải thi hành án, thân nhân của họ hoặc
người đang sử dụng tài sản đó bảo quản.
Đối với tài sản là
vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ thì việc giao nhận phải theo đúng thủ
tục do ngân hàng Nhà nước, Toà án nhân dân tối cao và Bộ tư pháp quy định.
2- Chấp hành viên
phải giải thích cho người được giao bảo quản tài sản đã kê biên về trách nhiệm
của họ trong việc bảo quản tài sản.
3- Người được giao
bảo quản tài sản được hưởng thù lao và được trả mọi chi phí cần thiết về bảo
quản tài sản, trừ trường hợp họ là người phải thi hành án hoặc là người đang sử
dụng tài sản.
Điều 27: Biên
bản kê biên, giao bảo quản tài sản.
Chấp hành viên lập
biên bản kê biên, giao bảo quản tài sản. Trong biên bản phải ghi ngày, giờ kê
biên, họ và tên chấp hành viên, người được thi hành án, người phải thi hành án
và người chứng kiến, mô tả tình trạng từng tài sản và những yêu cầu của đương
sự hoặc ý kiến của người chứng kiến việc kê biên.
Chấp hành viên,
đương sự, người chứng kiến và người được giao bảo quản tài sản ký tên vào biên
bản. Trong trường hợp có người từ chối ký thì việc đó phải ghi vào biên bản và
ghi rõ lý do.
Biên bản được giao
cho người được thi hành án, người phải thi hành án và người được giao bảo quản
tài sản.
Điều
28: Bán đầu giá tài sản đã kê biên.
Danh mục tài sản
và thời gian bán đấu giá phải được niêm yết công khai tại trụ sở Toà án và Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có tài sản và thông báo cho đương sự,
chậm nhất là bảy ngày trước ngày bán đấu giá.
2- Tài sản đã kê
biên được bán cho người trả giá cao nhất. Nếu không có ai trả giá cao hơn giá
đã định thì tài sản được bán cho người mua theo giá mà Hội đồng định giá đã
định.
Tài sản không bán
được thì được định giá lại để tiếp tục bán đấu giá.
3- Đối với tài sản
không bán được, chấp hành viên yêu cầu người được thi hành án nhận; nếu người
được thi hành án không nhận thì chấp hành viên trả tài sản cho người phải thi
hành án và quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế khác.
Điều 29: Xử lý
tài sản đã tịch thu.
Tài sản đã tịch
thu là vũ khí, chất nổ, chất phóng xạ hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn
hoá được giao cho cơ quan có chức năng quản lý loại tài sản đó theo quy định
của pháp luật.
Đối với tài sản
khác sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ của người bị tịch thu tài sản, chấp
hành viên giao cho cơ quan tài chính xử lý theo quy định của pháp luật.
Người muốn mua nhà
phải nộp đơn và nộp trước 1% trị giá nhà tại Toà án. Số tiền này được hoàn lại
ngay, nếu họ không mua được nhà.
Trong thời hạn ba
mươi ngày kể từ ngày bán đấu giá, người mua được nhà phải trả đủ tiền tại Toà
án. Nếu họ không trả đủ tiền trong thời hạn đó thì số tiền nộp trước không được
trả lại và được nộp vào ngân sách Nhà nước.
Điều 31: Thứ tự
thanh toán tiền bán tài sản.
Số tiền bán tài
sản, sau khi trừ các chi phí về thi hành án, được thanh toán cho người được thi
hành án theo thứ tự sau đây:
1- Tiền cấp dưỡng;
2- Tiền bồi thường
thiện hại về tính mạng, sức khoẻ;
3- Tiền công lao
động;
4- Các khoản phải
trả Nhà nước;
5- Các khoản phải
trả khác.
Số tiền còn lại
được trả cho người phải thi hành án.
Điều 32: Trừ
vào thu nhập của người phải thi hành án.
1- Thu nhập của
người phải thi hành án bao gồm: Tiền lương, trợ cấp hưu trí hoặc mất sức, thu
nhập của xã viên hợp tác xã và các thu nhập hợp pháp khác.
3- Mức cao nhất
được trừ vào lương, trợ cấp hưu trí hoặc trợ cấp mất sức là 50%. Đối với những
khoản thu nhập khác, thì mức trừ căn cứ vào thu nhập thực tế, nhưng phải bảo
đảm điều kiện sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án.
Điều 33: Thực
hiện quyết định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
1- quyết định của
chấp hành viên về trừ vào thu nhập được gửi cho người được thi hành án, người
phải thi hành án, thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người phải thi hành
án làm việc hoặc nhận thu nhập.
Cơ quan, tổ chức,
đơn vị nói trên có nghĩa vụ chuyển cho người được thi hành án số tiền được trừ
vào thu nhập của người phải thi hành án và báo cho chấp hành viên đã ra quyết
định đó biết.
2- Khi người phải
thi hành án chuyển đến ở nơi khác thì nơi trả thu nhập cho người đó phải chuyển
quyết định của chấp hành viên đến nơi mới và báo cho chấp hành viên đã ra quyết
định biết. Nơi trả thu nhập mới của người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành
quyết định về việc trừ vào thu nhập của người đó.
Điều 34: Trừ
vào tài sản của người phải thi hành án đang do người khác giữ.
1- Đối với tài sản
của người phải thi hành án đang gửi ở ngân hàng, chấp hành viên yêu cầu ngân
hàng khấu trừ và chuyển cho người được thi hành án số tiền hoặc tài sản mà
người phải thi hành án phải trả cho người đó.
2- Đối với tài sản
của người phải thi hành án đang cho người khác vay, mượn, thuê hoặc gửi giữ,
gửi sửa chữa, chấp hành viên yêu cầu người vay, mượn, thuê hoặc giữ chuyển cho
người được thi hành án số tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người
đó hoặc kê biên và bán tài sản đó để thi hành án theo quy định tại Chương IV
của Pháp lệnh này.
3- Nếu có tranh
chấp về tài sản quy định tại khoản 2 Điều này thì Toà án đã ra quyết định thi
hành án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Điều 35: Cưỡng
chế giao đồ vật.
Trong trường hợp
người phải thi hành án bị cưỡng chế giao đồ vật cho người được thi hành án thì
chấp hành viên giao đồ vật đó cho người được thi hành án.
Điều 36
Cưỡng chế trả nhà.
Trong trường hợp
cưỡng chế trả nhà cho người được thi hành án thì chấp hành viên cho chuyển đồ
đạc của người phải thi hành án ra khỏi nhà và giao nhà cho người được thi hành
án.
Điều 37: Cưỡng
chế chấm dứt hành vi trái pháp luật.
Khi người phải thi
hành án không tự nguyện chấm dứt hành vi trái pháp luật thì chấp hành viên áp
dụng biện pháp cưỡng chế chấm dứt hành vi đó.
Chương v
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT CỦA CHẤP HÀNH
VIÊN VÀ KHÁNG CÁO QUYẾT ĐỊNH CỦA CHÁNH ÁN
Điều 38: Khiếu
nại, tố cáo hành vi trái pháp luật của chấp hành viên.
Người được thi
hành án, người phải thi hành án và người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan
đến việc thi hành án có quyền khiếu nại, tố cáo với Chánh án Toà án đã ra quyết
định thi hành án về hành vi trái pháp luật của chấp hành viên.
Trong thời hạn
mười lăm ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, tố cáo, Chánh án toà án đã ra
quyết định thi hành án phải trả lời người khiếu nại, tố cáo và ra quyết định
sửa chữa hành vi trái pháp luật của chấp hành viên. Nếu không đồng ý với cách
giải quyết của Chánh án, người khiếu nại, tố cáo có quyền khiếu nại với Chánh
án Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận được
khiếu nại, tố cáo, Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp phải giải quyết và thông
báo cho người khiếu nại, tố cáo. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên trực
tiếp có hiệu lực thi hành.
Điều 39: Kháng
cáo quyết định của Chánh án Toà án về thi hành án.
Người được thi
hành án, người phải thi hành án và người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan
đến việc thi hành án có quyền kháng cáo các quyết định thi hành án, hoãn thi
hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án, khôi phục thời hiệu
thi hành án, phạt tiền và trả lại đơn yêu cầu thi hành án của Chánh án Toà án.
Thời hạn kháng cáo
là bảy ngày kể từ ngày nhận được quyết định. Đơn kháng cáo được gửi đến Toà án
đã ra quyết định thi hành án và Toà án cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn bảy
ngày kể từ ngày nhận được kháng cáo, Chánh án toà án đã ra quyết định thi hành
án phải gửi hồ sơ thi hành án lên Toà án cấp trên trực tiếp.
Chánh án Toà án
cấp trên trực tiếp giải quyết kháng cáo trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày
nhận được hồ sơ. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp có hiệu lực
thi hành.
Chương VI
XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 40: Phạt
tiền người phải thi hành án.
Khi người phải thi
hành án đã được giải thích mà không tự nguyện thi hành quyết định của Toà án
buộc bản thân họ thực hiện hành vi nhất định trừ việc giao nộp tài sản, thì
theo đề nghị của chấp hành viên, Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án
có quyền phạt người phải thi hành án từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng.
Điều 41: Các
hình thức xử lý khác.
Người nào cố ý
không thi hành bản án, quyết định của Toà án, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế cần thiết; lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án
hoặc ép buộc chấp hành viên thi hành án trái pháp luật một cách nghiêm trọng; phá
huỷ niêm phong hoặc có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu,
huỷ hoại tài sản bị kê biên trong giai đoạn thi hành án thì tuỳ theo mức độ vi
phạm nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Chương VII
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1-1-1990.
Những quy định
trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.
Điều 43
Toà án nhân dân
tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này./.
|
T.M HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC (Đã ký) Võ Chí Công |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét