BỘ XÂY DỰNG |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 19/2005/TT-BXD |
Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2005 |
Hướng
dẫn một số nội dung của Nghị định số 127/2005/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2005
của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26 tháng 11
năm 2003 của Quốc hội và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02 tháng 4 năm
2005 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối với một số
trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý
nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
Căn
cứ Nghị định số 36/2003/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2003 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng;
Căn
cứ Nghị định số 127/2005/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ hướng
dẫn thực hiện Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội
(sau đây gọi chung là Nghị quyết số 23/2003/QH11) và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11
ngày 02 tháng 4 năm 2005 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết
đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính
sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng
7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11);
Bộ
Xây dựng hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 127/2005/NĐ-CP
ngày 10 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ (sau đây gọi chung là Nghị định số
127/2005/NĐ-CP) hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 23/2003/QH11 và Nghị quyết số
755/2005/NQ-UBTVQH11 như sau:
1. Căn cứ vào Nghị quyết số
23/2003/QH11 và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh) chỉ đạo Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp huyện) rà soát và tổng hợp danh
sách nhà đất (căn, ngôi nhà) mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng theo chính
sách quy định tại Nghị quyết số 23/2003/QH11 nhưng trong quá trình quản lý, bố
trí sử dụng chưa hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân (chưa có
quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) để Sở Xây dựng hoặc cơ quan có chức
năng quản lý nhà cấp tỉnh (sau đây gọi chung là cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh)
tổng hợp chung trên địa bàn toàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định xác lập sở hữu toàn dân.
Biểu tổng hợp nhà đất thuộc diện phải
xác lập sở hữu toàn dân theo hướng dẫn tại phụ lục số 1 và mẫu quyết định xác
lập sở hữu toàn dân theo hướng dẫn tại phụ lục số 2 của Thông tư này.
2. Việc tổ chức quản lý quỹ nhà đất mà
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân
(nhà đất đã có quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) được thực hiện như sau:
a) Đối với nhà đất đang sử dụng vào mục
đích để ở nhưng người đang trực tiếp sử dụng chưa ký hợp đồng thuê nhà với Nhà
nước thì doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà
nước của địa phương phải lập thủ tục ký kết hợp đồng thuê nhà ở theo quy định
hiện hành và thực hiện việc bán nhà ở cho người đang thuê theo quy định của
Nghị định số 61/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ về mua bán và kinh
doanh nhà ở. Đối với nhà ở không thuộc diện được bán hoặc người ở thuê không
mua thì thực hiện theo quy định của Chỉ thị số 43/2004/CT-TTg ngày 03/12/2004
của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển giao nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
b) Đối với nhà đất đang do các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã
hội-nghề nghiệp sử dụng thì việc quản lý, sử dụng nhà đất của các tổ chức này
phải thực hiện theo đúng quy định về quản lý tài sản nhà đất thuộc sở hữu nhà
nước;
c) Đối với nhà đất đang do các doanh
nghiệp nhà nước không có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của
địa phương quản lý, sử dụng thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo xác định giá
trị nhà đất để thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp theo quy định hiện hành
về giao vốn;
d) Trong trường hợp các cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân sử dụng nhà đất không đúng mục đích được giao
hoặc cho các cơ quan, tổ chức khác thuê thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải có
quyết định thu hồi để giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ
nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý việc sử dụng theo quy định
hiện hành về quản lý tài sản nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.
1. Người thuộc diện được thanh toán
(không phụ thuộc vào nơi đang cư trú) có trách nhiệm lập và nộp hồ sơ đề nghị
thanh toán tại cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh nơi có nhà đất mà Nhà nước đã trưng
mua trước đây nhưng chưa trả tiền hoặc mới trả một phần.
2. Căn cứ vào hồ sơ đề nghị thanh toán,
cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh phối hợp với Sở Tài chính và các ngành có liên
quan đối chiếu hồ sơ đề nghị thanh toán với hồ sơ gốc về nhà đất mà Nhà nước đã
trưng mua trước đây để lập phương án thanh toán. Trường hợp hồ sơ đề nghị thanh
toán không đủ các giấy tờ theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số
755/2005/NQ-UBTVQH11 thì cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh phải hướng dẫn để người
đề nghị thanh toán bổ sung hồ sơ. Sau khi bổ sung mà vẫn không đủ điều kiện để
thanh toán thì cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh phải có văn bản thông báo cho người
đề nghị thanh toán biết rõ lý do việc không được giải quyết.
Những trường hợp có đủ hồ sơ và đủ điều
kiện được thanh toán theo quy định thì cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh tổng hợp
danh sách trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
3. Việc xác định giá nhà làm cơ sở để
thanh toán được thực hiện như sau:
a) Đối với trường hợp Nhà nước trưng
mua nhưng chưa thanh toán tiền thì cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh phối hợp với Sở
Tài chính xác định số tiền phải thanh toán trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định. Việc xác định số tiền thanh toán phải lấy giá xây dựng mới của
nhà ở cấp 2, nếu là biệt thự thì lấy giá biệt thự hạng 2 do Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh ban hành tại thời điểm thanh toán nhân với diện tích nhà mà Nhà nước đã
trưng mua trước đây.
Ví dụ: Năm 1978 Nhà nước trưng mua của ông Nguyễn Văn A tại
tỉnh B căn nhà cấp 3 với diện tích là 120 m2 nhưng chưa trả tiền cho
ông A. Tháng 6 năm 2006 ông A nộp hồ sơ đề nghị thanh toán thì số tiền thanh
toán cho ông A được xác định như sau:
Giá chuẩn nhà ở xây dựng mới của nhà
cấp 2 do Uỷ ban nhân dân tỉnh B quy định áp dụng tại thời điểm thanh toán (năm
2006) là 1,3 triệu đồng/m2 thì giá tiền thanh toán sẽ là: 1.300.000
đồng x 120 m2 =156.000.000 đồng
Như vậy, số tiền mà Uỷ ban nhân dân
tỉnh B phải thanh toán cho ông A là 156.000.000 đồng (một trăm năm mươi sáu
triệu đồng).
b) Đối với trường hợp Nhà nước trưng
mua nhưng đã thanh toán một phần tiền thì cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh phối hợp
với Sở Tài chính thực hiện xác định số tiền phải thanh toán trên cơ sở giá nhà
như quy định tại tiết a điểm này và trừ đi phần trăm số tiền mà Nhà nước đã trả
trước đây để thanh toán cho chủ sở hữu số tiền còn lại.
Ví dụ: Giả sử tại thời điểm trưng mua, ngôi nhà của ông A có
giá 100.000 đồng, ông A đã được Nhà nước thanh toán là 40.000 đồng (bằng 40%).
Nay số tiền còn lại Nhà nước phải thanh toán cho ông A là 60% và được xác định
thành tiền là: (1.300.000 đồng x 120 m2) x 60% = 93.600.000 đồng
(chín mươi ba triệu sáu trăm ngàn đồng).
c) Cấp hạng nhà được áp dụng làm cơ sở
để xác định giá nhà được quy định tại Thông tư số 5-BXD/ĐT ngày 9/2/1993 của Bộ
Xây dựng về hướng dẫn phương pháp xác định diện tích sử dụng và phân cấp nhà ở.
4. Căn cứ vào số tiền phải thanh toán
theo đề nghị của cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh và Sở Tài chính, Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh có trách nhiệm bố trí kinh phí để thanh toán theo đúng quy định của
Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 và Nghị định số 127/2005/NĐ-CP.
Trong trường hợp địa phương không đủ
kinh phí để thanh toán thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải lập báo cáo giải trình
cụ thể kèm theo danh sách tổng hợp theo mẫu quy định tại phụ lục số 3 của Thông
tư này gửi Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính tổng hợp để báo cáo Thủ tướng Chính phủ
quyết định.
1. Người thuộc diện được giao lại nhà ở
(không phụ thuộc vào nơi đang cư trú) có trách nhiệm lập và nộp hồ sơ đề nghị
giao lại nhà ở tại cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh nơi có nhà đất mà Nhà nước đã
trưng dụng trước đây.
2. Căn cứ vào hồ sơ đề nghị giao lại
nhà ở, cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã) hoặc cơ quan, tổ chức
đang quản lý sử dụng nhà đất để kiểm tra, xác minh hiện trạng và mục đích sử
dụng nhà ở thuộc diện được giao lại, đối chiếu hồ sơ gốc về nhà ở mà Nhà nước
đã trưng dụng với các điều kiện giao lại nhà ở quy định tại Điều 7 của Nghị
quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 và Điều 7 của Nghị định số 127/2005/NĐ-CP. Trong
trường hợp đủ điều kiện để giao lại thì cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh trình Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định giao lại nhà ở đó cho chủ sở hữu.
3. Trường hợp nhà ở không giao lại được
theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 127/2005/NĐ-CP thì Uỷ ban
nhân dân tỉnh chỉ đạo lập phương án bồi thường theo quy định hiện hành để bồi
thường cho người thuộc diện được giao lại nhà ở.
Trong trường hợp phải bồi thường bằng
tiền từ nguồn ngân sách nhà nước mà địa phương không đủ kinh phí để thanh toán
thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải lập báo cáo giải trình cụ thể kèm theo danh
sách tổng hợp theo mẫu quy định tại phụ lục số 4 của Thông tư này gửi Bộ Xây
dựng và Bộ Tài chính tổng hợp để báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
4. Người được giao lại nhà ở hoặc được
bồi thường bằng nhà ở, đất ở phải làm thủ tục để được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật.
1. Người thuộc diện được hỗ trợ cải
thiện nhà ở phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 9 của Nghị định số
127/2005/NĐ-CP.
2. Người thuộc diện được hỗ trợ cải
thiện nhà ở phải có hồ sơ đề nghị hỗ trợ nhà ở nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp
huyện. Hồ sơ bao gồm các giấy tờ sau:
a) Đơn đề nghị hỗ trợ cải thiện nhà ở
có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người có đơn sinh sống về thực trạng
chỗ ở theo quy định tại khoản 3 Điều 9 của Nghị định số 127/2005/NĐ-CP;
b) Giấy tờ chứng minh Nhà nước đã quản
lý, bố trí sử dụng nhà đất của mình theo các chính sách quản lý nhà đất và chính
sách cải tạo nhà đất quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11.
3. Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị hỗ
trợ cải thiện nhà ở, Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra, xác
minh hồ sơ và lập danh sách các trường hợp đủ điều kiện để chuyển lên cơ quan
quản lý nhà cấp tỉnh.
4. Trên cơ sở hồ sơ và danh sách đề
nghị hỗ trợ cải thiện nhà ở do Uỷ ban nhân dân cấp huyện chuyển lên, cơ quan
quản lý nhà cấp tỉnh có trách nhiệm tổng hợp, xây dựng kế hoạch và phương án hỗ
trợ để trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Căn cứ vào điều kiện
cụ thể của địa phương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho thuê
nhà ở thuộc sở hữu nhà nước hoặc cho mua nhà ở trả góp theo quy định về bán nhà
ở cho người tái định cư hoặc bán nhà ở cho người thu nhập thấp.
Trong trường hợp địa phương chưa có nhà
ở để hỗ trợ thì cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh phải có văn bản thông báo rõ lý do
cho người thuộc diện được hỗ trợ biết.
Thông tư này có hiệu lực thi hành sau
15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng
mắc, các Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần phản
ánh kịp thời về Bộ Xây dựng để hướng dẫn thực hiện hoặc báo cáo Thủ tướng Chính
phủ xem xét, giải quyết./.
Nơi nhận |
KT. BỘ TRƯỞNG |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét