BỘ CÔNG AN Số: 46/2019/TT-BCA |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2019 |
Căn cứ Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật ngày 22 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự ngày 27 tháng 11 năm 2015;
Căn cứ Nghị định số 01/2018/NĐ-CP ngày 06 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Công an;
Theo đề nghị của Cục trưởng Cục Pháp chế và cải cách hành
chính, tư pháp;
Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Thông tư quy định trách nhiệm của lực lượng
Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị
can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố.
Chương I
Thông tư này quy định về trách nhiệm của lực lượng Công
an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định
truy nã (sau đây gọi chung là người bị bắt), người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp.
Việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý được thực hiện
theo Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 29
tháng 6 năm 2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
Thông
tư này áp dụng đối với Cơ quan điều tra, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng,
Điều tra viên, Cán bộ điều tra Cơ quan điều tra của Công an nhân dân; Cơ quan
của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,
Cấp trưởng, cấp phó, Cán bộ điều tra cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng, cán bộ cơ
sở giam giữ trong Công an nhân dân; người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; bị hại, đương sự, người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố; các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động bào
chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Chương II
Điều 3. Giải thích, thông báo quyền
nhờ người bào chữa
Khi tiếp nhận người bị bắt, giao Lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Quyết định tạm
giữ cho người bị tạm giữ, Quyết định khởi tố bị can cho bị can, người thực hiện
lệnh, quyết định, tiếp nhận người bị bắt phải đọc, giải thích rõ về quyền,
nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và ghi vào
biên bản giao nhận. Trong biên bản phải ghi rõ ý kiến của người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can về việc có nhờ
người bào chữa hay không và đề nghị thông báo cho người đại diện, người thân
thích để cơ quan có thẩm quyền thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 có liên quan đến người đại diện hoặc người thân thích của họ. Việc
thực hiện quyền nhờ người bào chữa như sau:
1. Đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị
tạm giam
a) Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang
bị tạm giam có đơn yêu cầu người bào chữa thì Cơ quan điều tra, cơ sở giam giữ
đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thực hiện
theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015.
Cơ sở giam giữ có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết.
Việc chuyển đơn yêu cầu người bào chữa của cơ quan đang
quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam được gửi trực
tiếp tại trụ sở cơ quan này hoặc gửi qua đường bưu chính. Nếu gửi trực tiếp tại
trụ sở cơ quan đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm
giam thì phải có ký nhận tại sổ giao nhận công văn, tài liệu.
b) Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang
bị tạm giam chưa yêu cầu nhờ người bào chữa thì trong lần đầu tiên lấy lời khai
người bị bắt, người bị tạm giữ, lần đầu tiên hỏi cung bị can, Điều
tra viên hoặc Cán bộ điều tra phải hỏi rõ người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can có nhờ người bào chữa hay không và phải ghi ý kiến của họ
vào biên bản. Nếu họ có yêu cầu nhờ người bào chữa thì Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra
hướng dẫn họ viết đơn
nhờ người bào chữa và thực hiện theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều này. Trường hợp họ không nhờ người bào chữa thì trong thời hạn 12
giờ sau khi lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, 24 giờ kể từ khi hỏi
cung bị can lần đầu, Điều tra viên, Cán bộ điều tra đã lấy lời khai, hỏi cung
có trách nhiệm thông báo cho người đại diện hoặc người thân thích của người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam.
2. Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
a) Trường hợp người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp có đơn yêu cầu người bào chữa thì trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được
đơn yêu cầu người bào chữa, cơ quan nhận đơn của người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc
người thân thích của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Trường hợp người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan
nhận đơn phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để
những người này nhờ người bào chữa. Việc chuyển đơn được thực hiện qua đường
bưu chính hoặc trực tiếp tại trụ sở cơ quan đang quản lý người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp nếu người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích có
nhu cầu nhận trực tiếp tại trụ sở cơ quan này và có ký nhận tại sổ giao nhận
công văn, tài liệu.
Việc chuyển đơn có thể được thực hiện cùng với việc thông
báo cho người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trong quá trình thực hiện
việc chuyển đơn, nếu người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp bị áp dụng biện pháp tạm giữ
thì việc tiến hành các thủ tục đăng ký bào chữa tiếp tục được thực hiện, không
phải làm các thủ tục đăng ký đối với người bị tạm giữ.
b) Trường hợp người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
không yêu cầu người bào chữa thì trong thời hạn 12 giờ kể từ khi lập xong biên
bản giao nhận Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, cơ quan đang quản lý
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thông báo cho người đại diện hoặc người
thân thích của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Trường hợp người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp bị tạm giữ thì thực hiện theo quy định tại khoản 1
Điều này.
3. Trường hợp cần giừ bí mật điều tra đối với các tội xâm
phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để
người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Điều tra viên hoặc
Cán bộ điều tra phải thông báo cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can biết quyết định của Viện trưởng
Viện kiểm sát.
a) Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người
bị bắt đang ở trụ sở Cơ quan điều tra
Trong thời hạn không quá 12 giờ kể từ khi lập biên bản,
Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo cho người bào chữa mà người đại diện
hoặc người thân thích của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt
nhờ và Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra có trách nhiệm thống nhất về thời
gian với người bào chữa để trực tiếp gặp người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, người bị bắt, xác nhận việc từ chối và phải lập biên bản. Trường hợp người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt đã có quyết định tạm giữ của cơ
quan có thẩm quyền thì Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra vẫn phải thông báo và
thống nhất về thời gian với người bào chữa để gặp người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt đã có quyết định tạm giữ.
b) Đối với người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam
Trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi lập biên bản,
Cơ quan điều tra, Nhà tạm giữ, Trại tạm giam có trách nhiệm thông báo kèm theo
biên bản cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của người bị
tạm giữ, bị can đang bị tạm giam, Cơ quan điều tra đang thụ lý vụ án biết
(trong trường hợp Nhà tạm giữ, trại tạm giam lập biên bản). Điều tra viên hoặc
Cán bộ điều tra có trách nhiệm thống nhất về thời gian với người bào chữa để
trực tiếp gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam, xác nhận việc từ chối
và phải lập biên bản.
Trường hợp người bị tạm giữ bị khởi tố bị can và có lệnh
tạm giam của người có
thẩm quyền thì Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra vẫn
phải thống nhất về thời gian với người bào chữa để gặp người bị tạm giữ đã có
lệnh tạm giam.
Trường hợp người bị tạm giữ bị khởi tố bị can nhưng không
bị áp dụng biện pháp tạm giam thì việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa được
thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Thông tư này.
Trường hợp người bị tạm giữ được trả tự do,
nếu vẫn còn tư cách tham gia tố tụng thuộc trường hợp có quyền nhờ người bào
chữa thì vẫn tiến hành các thủ tục đăng ký bào chữa; nếu không thuộc trường hợp có quyền
nhờ người bào chữa thì tạm dừng tiến hành các thủ tục đăng ký bào chữa.
Điều 5. Thực hiện thủ tục chỉ định
người bào chữa
Đối với người thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa
theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hoặc
người đại diện hoặc người thân thích của người thuộc trường hợp chỉ định
người bào chữa có đơn yêu cầu người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Nhà tạm giữ,
Trại tạm giam thực hiện các quy định tại Điều 3, Điều 4 Thông tư này. Nếu người
thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích
của người thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa không có đơn yêu cầu người
bào chữa thì thực hiện như sau:
1. Trong thời hạn 03 ngày kể từ khi nhận được thông báo
của cơ quan có thẩm quyền mà người đại diện hoặc người thân thích của những
người thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản
1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có đơn yêu
cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm thực hiện
các thủ tục chỉ định người bào chữa được quy định tại khoản 2 Điều 76 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015.
2. Khi nhận được văn bản cử người được quy định tại điểm
a, điểm b khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong
thời hạn không quá 24 giờ, Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra có trách nhiệm
gặp bị can thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 76
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người đại diện hoặc người thân thích của những người quy định tại điểm
b khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để
họ có ý kiến về
việc chỉ định người bào chữa; việc gặp phải được lập biên
bản và ghi rõ ý kiến của bị can, người đại diện hoặc người thân thích về việc
có đồng ý hoặc thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Trường hợp đồng ý chỉ định
người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án làm căn cứ để tiến hành thủ tục
đăng ký bào chữa.
3. Trường hợp thay đổi người bào chữa, nếu bị can, người
đại diện hoặc người thân thích nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan đang
thụ lý vụ án có trách nhiệm yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan của người bào chữa đó
để phân công; nếu không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ
án có trách nhiệm gửi đến một trong các cơ quan quy định tại điểm
a, điểm b khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để
cử lại người.
4. Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan đang thụ
lý vụ án có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đã cử người, người được cử chỉ
định. Điều tra viên, Cán bộ điều tra có trách nhiệm thống nhất với người được
cử chỉ định về thời gian gặp bị can thuộc trường hợp quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người đại diện hoặc
người thân thích của những người quy định tại điểm b khoản 2 Điều 76
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xác nhận việc từ chối.
Điều 6. Tiếp nhận, thực hiện thủ tục
đăng ký bào chữa
1. Trực ban hình sự của Cơ quan điều tra hoặc trực ban
hình sự của từng đơn vị điều tra (trong trường hợp không tổ chức trực ban hình
sự chung) có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ đăng ký bào chữa. Khi nhận được hồ sơ
đăng ký bào chữa, trường hợp Cơ quan điều tra tổ chức trực ban hình sự chung
thì cán bộ trực ban hình sự có trách nhiệm ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm nhận
vào sổ trực ban hình sự, chuyển ngay cho đơn vị thụ lý vụ án để đóng dấu văn
bản đến và giao ngay cho Điều tra viên được phân công giải quyết vụ án. Trường
hợp đơn vị điều tra tổ chức trực ban hình sự riêng, cán bộ trực ban hình sự có
trách nhiệm đóng dấu văn bản đến, ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm nhận và chuyển
ngay cho Điều tra viên được phân công giải quyết vụ án.
Điều tra viên có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ.
Trường hợp hồ sơ bảo đảm theo quy định tại khoản 2 Điều 78 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 thì Điều tra viên có trách nhiệm trình
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra (khi được Thủ trưởng phân công hoặc
ủy quyền) ký Thông báo về việc đăng ký bào chữa và vào sổ đăng ký bào chữa.
Trường hợp hồ sơ đăng ký bào chữa chưa bảo đảm theo quy định tại khoản
2 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Điều tra viên
hoặc Cán bộ điều tra thông báo cho người đăng ký bào chữa biết để bổ sung hồ
sơ.
Trường hợp người bào chữa làm thủ tục đăng ký bào chữa
cho những người đã
có quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát để người bào
chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra thì Điều tra viên, Cán bộ điều
tra thông báo cho người đăng ký bào chữa biết.
2. Thời hạn giải quyết thủ tục đăng ký bào
chữa được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 78 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015.
3. Cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm từ
chối việc đăng ký bào chữa khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản
5 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và hủy bỏ việc đăng
ký bào chữa theo quy định tại khoản 7 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi có căn cứ từ chối hoặc từ
khi hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm
thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối, hủy bỏ việc đăng ký bào chữa
cho người bào chữa, cơ sở giam giữ.
Trường
hợp Cơ quan đang thụ lý vụ án hủy bỏ thông báo người bào chữa thì phải thông
báo cho tổ chức quản lý người bào chữa bằng văn bản và nêu rõ lý do hủy bỏ.
Chương III
2. Thời điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hình sự kể từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và có căn cứ xác định
tư cách tham gia tố tụng của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
Trong lần đầu tiên lấy lời khai bị hại, đương sự, người
bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải
giải thích quyền, nghĩa vụ của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị
kiến nghị khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và hỏi họ
xem có nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hay không, phải ghi ý kiến
của họ vào biên bản. Trường hợp họ nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra hướng dẫn họ viết đơn
nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Trường hợp họ không nhờ người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra giải thích
quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được thực hiện trong suốt quá
trình tiến hành tố tụng.
1. Khi đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người
bị kiến nghị khởi tố phải xuất trình các giấy tờ:
a) Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có
chứng thực và giấy nhờ Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
b) Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân
hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào
chữa viên nhân dân của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;
c) Người đại diện của bị hại, đương sự, người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước
công dân kèm theo bản sao có chứng thực và giấy tờ có xác nhận của cơ quan có
thẩm quyền về mối quan hệ của họ với bị hại, đương sự, người bị tố giác, người
bị kiến nghị khởi tố.
2. Trực ban hình sự của Cơ quan điều tra hoặc trực ban
hình sự của từng đơn vị điều tra (trong trường hợp không tổ
chức trực ban hình sự chung), trực ban các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Khi nhận được hồ sơ đăng ký, đối với Cơ quan điều tra tổ chức trực ban hình sự
chung thì cán bộ trực ban hình sự có trách nhiệm ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm
nhận vào sổ trực ban hình sự, chuyển ngay cho đơn vị thụ lý vụ việc, vụ án để
đóng dấu văn bản đến và giao ngay cho Điều tra viên được phân công giải quyết vụ án,
vụ việc. Đối với đơn vị điều tra tổ chức trực ban hình sự riêng, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cán bộ trực ban hình sự có trách
nhiệm đóng dấu văn bản đến, ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm nhận và chuyển ngay
cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra được phân công giải quyết vụ án, vụ việc.
Điều tra viên, Cán bộ điều tra có trách nhiệm tiếp nhận,
kiểm tra hồ sơ. Trường hợp hồ sơ bảo đảm theo quy định tại khoản 1 Điều này thì
trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận, Điều tra viên, Cán bộ điều
tra có trách nhiệm trình Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
(khi được Thủ
trưởng phân công hoặc ủy quyền), Cấp
trưởng, Cấp phó cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ký
Thông báo về việc đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và vào sổ đăng ký bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp. Trường hợp hồ sơ đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp chưa bảo đảm theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Điều tra viên, Cán bộ
điều tra thông báo cho người đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp biết để
bổ sung hồ sơ.
Trường hợp có căn cứ từ chối việc đăng ký bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố, cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc có trách nhiệm thông báo bằng văn
bản và nêu rõ lý do từ chối cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
1. Văn bản thông báo người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố
tụng, trừ trường hợp bị hại, đương sự đề nghị thay đổi người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp.
Văn bản thông báo người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có giá trị trong quá trình
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, trừ trường hợp
người bị tố giác, kiến nghị khởi tố đề nghị thay đổi người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Trường hợp người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
đã được cơ quan có thẩm quyền có văn bản thay đổi tư cách tham gia tố tụng, nếu
thuộc diện được nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành các
thủ tục đăng ký bào chữa theo quy định tại Chương II Thông tư này.
Việc đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong
trường hợp thay đổi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương
sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố được thực hiện theo quy định
tại Điều 9 Thông tư này.
2. Cơ quan đang thụ lý vụ án hủy bỏ việc đăng ký bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố vi phạm pháp luật
khi tiến hành bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị
tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
Trong
thời hạn 24 giờ kể từ khi hủy bỏ việc đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc có trách nhiệm thông báo bằng văn bản nêu rõ
lý do hủy bỏ cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người thực hiện nhờ
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Chương IV
2. Trường hợp người bào chữa đã được cơ quan đang thụ lý
vụ án báo trước mà không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành, trừ
trường hợp quy định tại Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đã được báo trước
mà không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành.
3. Khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, Điều tra viên, Cán bộ
điều tra và người bào chữa phải thực hiện theo quy định của điểm
b khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nội quy Nhà tạm giữ,
Trại tạm giam và các quy định pháp luật khác có liên quan. Nếu phát hiện người
bào chữa vi phạm pháp luật thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải dừng ngay
việc lấy lời khai, hỏi cung bị can và lập biên bản về việc này, báo cáo Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý. Trường hợp Điều tra viên, Cán bộ
điều tra vi phạm pháp luật thì người bào chữa có quyền phản ánh vi phạm đến Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra.
Khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can nếu Điều tra viên đồng ý cho
người bào chữa được hỏi thì phải ghi câu hỏi của người bào chữa, câu trả lời
của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can vào biên bản lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị
bắt, người bị tạm giữ, biên bản hỏi cung bị can. Khi kết thúc việc lấy lời
khai, hỏi cung bị can, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải đọc lại hoặc đưa cho
người bào chữa đọc lại biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung. Sau khi xác
nhận đúng nội dung câu hỏi của người bào chữa, câu trả lời của người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can thì Điều tra
viên, Cán bộ điều tra yêu cầu người bào chữa ký vào biên bản. Trường hợp biên
bản ghi chưa đầy đủ, chưa chính xác nội dung câu hỏi và câu trả lời, người bào
chữa có quyền đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ghi ý kiến của mình trước khi ký
vào biên bản.
4. Khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố, Điều tra viên, Cán bộ điều tra và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tố giác, kiến nghị khởi tố phải thực hiện theo quy định của điểm
c khoản 3 Điều 83 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trường hợp Điều tra
viên, Cán bộ điều tra đồng ý cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị tố giác, kiến nghị khởi tố được hỏi thì phải ghi câu hỏi của người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, câu trả lời của người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố vào biên bản lấy lời khai. Khi kết thúc việc lấy lời khai, Điều
tra viên, Cán bộ điều tra phải đọc lại hoặc đưa cho người bào chữa đọc lại biên
bản lấy lời khai, sau khi xác nhận đúng nội dung câu hỏi của người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, câu trả
lời của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố thì Điều tra viên, Cán bộ
điều tra yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố ký vào biên bản. Trường hợp biên bản ghi chưa đầy
đủ, chưa chính xác nội dung câu hỏi và câu trả lời, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền đề nghị
sửa đổi, bổ sung hoặc ghi ý kiến của mình trước khi ký vào biên bản.
5. Khi người bào chữa đề nghị, Điều tra viên phải xác
nhận thời gian làm việc thực tế của người bào chữa tham gia tố tụng trong quá
trình điều tra vụ án hình sự.
1. Khi người bào chữa đề nghị gặp người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt và đã xuất trình văn bản thông báo người bào
chữa và Thẻ luật sư, Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân thì cơ quan
đang thụ lý vụ án phải bố trí để người bào chữa gặp người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, người bị bắt tại trụ sở của mình, phổ biến cho người bào chữa
biết quy định của trụ sở Cơ quan điều tra và yêu cầu người bào chữa chấp hành
nghiêm chỉnh.
Khi người bào chữa đề nghị gặp người bị tạm giữ, bị can
đang bị tạm giam thì cơ quan đang quản lý người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm
giam thực hiện theo quy định tại Điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Cơ quan đang quản lý
người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam có trách nhiệm thông báo cho Cơ quan
đang thụ lý vụ án biết việc gặp của người bào chữa để cử người phối hợp
với cơ sở giam giữ giám sát cuộc gặp nếu xét thấy cần
thiết.
2. Việc tổ chức cho người bào chữa gặp người bị tạm giữ,
người bị tạm giam được thực hiện theo quy định tại Điều 10 Thông tư liên
tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2018 của
Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ
sở giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và viện kiểm sát có
thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
3. Người bào chữa có thể thông báo trước việc gặp người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang
bị tạm giam cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra đang thụ lý vụ án. Việc gặp
người bị tạm giữ, người bị tạm giam của người bào chữa được thực hiện trong giờ
làm việc của cơ sở giam giữ. Cơ quan điều tra, Cơ sở giam giữ không được hạn chế số
lần và thời gian trên một lần gặp của người bào chữa với người bị tạm giữ, bị
can đang bị tạm giam. Người bào chữa phải tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, các văn bản hướng
dẫn thi hành và nội quy cơ sở giam giữ.
1. Khi người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự có văn bản đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, Cơ quan đang thụ lý vụ án tiếp nhận văn bản để giải quyết. Nếu
có căn cứ thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 49 hoặc khoản
1 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì
thực hiện theo quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch số
04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19 tháng 10 năm 2018
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong
việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trường hợp đề nghị thay đổi Điều tra viên không có căn cứ
pháp luật thì Cơ quan đang thụ lý vụ án từ chối việc thay đổi Điều tra viên và
thông báo cho người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại, đương sự bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do từ chối.
2. Khi người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự có văn bản đề nghị thay đổi người giám định, người
định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, Cơ quan đang thụ lý vụ án
tiếp nhận văn bản để giải quyết. Nếu có căn cứ thuộc một
trong những trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 68, khoản
5 Điều 69, khoản 4 Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Cơ quan đang thụ
lý vụ án quyết định thay đổi người giám định, người định
giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật và thông báo cho người bào chữa
biết. Trường hợp đề nghị không có căn cứ pháp luật thì Cơ
quan điều tra từ chối việc thay đổi người giám định, người phiên dịch và thông báo cho người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do từ chối.
Khi người bào chữa có văn bản đề nghị thay
đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, Cơ quan đang
thụ lý vụ án tiếp nhận văn bản để giải quyết. Trong thời hạn không
quá 10 ngày làm việc, kể từ khi tiếp nhận, nếu
có căn cứ thuộc một trong những
trường hợp quy định tại Điều 125, Điêu 130 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Cơ quan đang thụ lý vụ
án ra quyết định thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo
thẩm quyền hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết gửi Viện kiểm sát quyết định
đối với các biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn. Nếu đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế không có căn cứ pháp luật thì Cơ quan đang thụ
lý vụ án từ chối việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
và thông báo cho người bào chữa bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do từ chối.
Điều 15. Trách nhiệm bảo đảm thực hiện
quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật
Người bào chữa thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật liên quan đến việc bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật và giao cho Cơ quan đang thụ lý vụ án thì Điều tra viên, Cán
bộ điều tra phải lập biên bản giao nhận, đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc. Trường
hợp phát hiện người bào chữa thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến
việc bào chữa thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác hoặc tiết lộ bí mật điều
tra thì tùy
theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, Cơ quan đang
thụ lý vụ án phải nhắc nhở, nếu vi phạm nghiêm trọng thì có biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc báo
cáo cấp có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đưa
ra yêu cầu, nếu thấy yêu cầu có liên quan đến việc bào chữa hoặc liên quan đến
việc giải quyết vụ án, vụ việc thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra lập biên bản
ghi nhận yêu cầu của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
Điều 16. Trách nhiệm thực hiện bảo đảm
quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án
1. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều
tra, Cơ quan điều tra phải gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết
định đình chỉ điều tra cho bị can, người bào chữa.
2. Sau khi kết thúc điều tra, nếu người bào chữa đề nghị
được đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc
bào chữa, nếu hồ sơ vụ án đang thuộc quyền quản lý của Cơ quan điều tra thì Cơ
quan điều tra phải tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thực hiện yêu cầu
này. Điều tra viên bố trí cho người bào chữa đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu
tại phòng làm việc thuộc trụ sở Cơ quan điều tra. Trong quá trình người bào
chữa đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giám
sát chặt chẽ. Việc sao chụp tài liệu do người bào chữa thực hiện. Sau khi đọc,
ghi chép, sao chụp tài liệu, người bào chữa phải bàn giao nguyên trạng hồ sơ vụ
án cho cơ quan đã cung cấp hồ sơ. Nếu để mất, thất lạc, hư
hỏng tài liệu, hồ sơ vụ án thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo
quy định của pháp luật.
Việc
đọc, ghi chép hoặc sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc
bào chữa của người bào chữa phải được lập biên bản ghi nhận, tài liệu giao cho
người bào chữa phải có bản thống kê các tài liệu kèm theo.
Chương V
Điều 17. Phương thức gửi, thông báo
Việc gửi hoặc thông báo văn bản trong Thông tư này được
thực hiện thông qua các phương thức:
1. Gửi trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính.
2. Thông báo qua phương tiện thông tin đại chúng.
3. Có thể thông báo bằng hình thức liên lạc qua dịch vụ
bưu chính (điện thoại, fax...) hoặc qua các ứng dụng mạng xã hội phổ biến do
Điều tra viên, Cán bộ điều tra thống nhất với người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố.
Ban hành kèm theo Thông tư này các biểu mẫu sau:
1. Thông báo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
2. Sổ đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Chi phí gửi, thông báo bằng văn bản, chi phí sao chụp tài
liệu trong hồ sơ vụ án trong Thông tư này của các cơ quan điều tra được chi từ
nguồn kinh phí điều tra; chi phí gửi, thông báo bằng văn bản trong Thông tư này
của nhà tạm giữ, trại tạm giam được chi từ nguồn kinh phí thường xuyên của nhà
tạm giữ, trại tạm giam.
Việc quản lý, sử dụng kinh phí phục vụ các hoạt động nêu
trên thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều 20. Hiệu lực của Thông tư
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 02
tháng 12 năm 2019.
Thông tư này thay thế Thông tư số 70/2011/TT-BCA ngày
10/10/2011 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết thi hành các quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Điều 21. Trách nhiệm tổ chức thực hiện
1. Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ, Giám
đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm tổ chức thi
hành và quán triệt đầy đủ nội dung Thông tư này cho Điều tra viên, Cán bộ điều
tra và cán bộ, chiến sĩ làm công tác công tác giam giữ.
2.
Cục An ninh Điều tra Bộ Công an, Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an
chịu trách nhiệm phối hợp với các đơn vị có liên quan theo dõi, kiểm tra, hướng
dẫn thực hiện Thông tư này. Trong quá trình thực hiện Thông tư nếu có vướng
mắc, Công an các đơn vị, địa phương báo cáo về Bộ (qua Cục pháp chế và cải cách
hành chính, tư pháp, Cục An ninh Điều tra Bộ Công an, Văn phòng Cơ quan Cảnh
sát điều tra Bộ Công an) để có hướng dẫn kịp thời./.
Nơi nhận: |
BỘ TRƯỞNG |
|
Mẫu số: 01 |
|
……………… |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM |
|
Số: ……………….. |
….., ngày ... tháng …
năm … |
|
|
|
|
THÔNG BÁO
VỀ VIỆC ĐĂNG KÝ BẢO VỆ
QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP(1)
Kính gửi: Ông/bà |
……………………………………………………… |
Căn
cứ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Thông tư số
46/2019/TT-BCA ngày 10 tháng 10 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định
trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội
quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố.
Sau
khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra giấy tờ và thấy đủ điều
kiện đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đã vào sổ đăng ký bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp và thông báo:
Ông/bà:
.........................................................................................................................
Sinh
năm:
......................................................................................................................
Nghề
nghiệp:
.................................................................................................................
Thẻ
luật sư/CMND/Thẻ CCCD số:
....................................................................................
cấp
ngày … tháng …. năm …. Nơi cấp:
..........................................................................
Là(2):...............................................................................................................................
....
đủ điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông/bà(3):
.....................................
Là(4):
..............................................................................................................................
Thuộc
vụ án/vụ việc:
.......................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
Cơ
quan
........................................................................................................................
thông
báo cho ông/bà biết.
|
…………………………….. |
_________________
(1)
Giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp lưu vào hồ
sơ vụ án, vụ việc;
(2)
Ghi rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là luật sư, người đại diện của
người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự, bào chữa viên
nhân dân;
(3)
Ghi rõ họ tên người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự.
(4)
Ghi rõ tư cách tham gia tố tụng của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi
tố, bị hại, đương sự.
|
Mẫu số: 02 |
(1)………………………… ……………………………. SỔ ĐĂNG KÝ BẢO VỆ
QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP (Thời gian bắt đầu từ
ngày … tháng … năm ….) (1)
- Ghi tên đơn vị của Cơ quan điều tra/Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. -
Sổ này giao cho đơn vị được phân công thụ lý vụ án/vụ việc quản lý. |
SỔ ĐĂNG KÝ BẢO VỆ QUYỀN
VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
STT |
Người
đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp |
Người
bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự |
Nội
dung thông báo đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp |
|
-
Họ tên: …………………… ……………………………… -
Thẻ luật sư/Người đại diện của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố,
bị hại, đương sự (CMND/Thẻ CCCD): ………………….. -
Đơn vị (1): ……………….. …………………………….. ……………………………. ……………………………. -
Giấy yêu cầu của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương
sự: …………………………….. …………………………….. …………………………….. …………………………….. …………………………….. …………………………. …………………………. |
-
Họ tên: ………………. …………………………. -
Sinh ngày … tháng … năm … -
Nơi ĐKTT: ………….. …………………………. …………………………. -
Chỗ ở: ………………. …………………………. …………………………. -
Trong vụ việc/vụ án: …………………………. …………………………. …………………………. …………………………. …………………………. …………………………. …………………………. …………………………. |
Sau
khi kiểm tra các giấy tờ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp để đăng
ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố, bị hại, đương sự, Cơ quan: ……….. ……………………………………. …………………………………….. Đã
kiểm tra ông/bà …………….. ……………………………………. Xét
thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp. Đã vào Sổ đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và gửi Thông báo số
….. ngày … tháng … năm … về việc đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho ông/bà: …………………………………. biết để thực hiện theo quy định của pháp luật. (2)
……………………………….. |
_________________
(1)
Ghi rõ Văn phòng luật sư/Công ty luật thuộc đoàn luật sư
(2)
Nếu không đủ điều kiện thì ra văn bản Thông báo từ chối việc đăng ký bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp và nêu rõ lý do. Trường hợp thay đổi người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp thì cũng ghi tương tự
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét