|
|
Số: 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP |
Hà Nội, ngày
03 tháng 01 năm 2001 |
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
Hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9 tháng 6 năm 2000
của Quốc hội “Về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình”
Ngày 9/6/2000 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá X đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình mới của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ đây gọi tắt là Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000). Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết số 35/2000/QH10 về thi hành Luật
Hôn nhân và gia đình (từ đây gọi tắt là Nghị quyết số 35).
Để thi hành đúng các quy định của Nghị quyết số
35 của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp thống nhất hướng dẫn một số điểm sau đây:
1. Theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số
35 của Quốc hội, trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày
03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng
ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ
án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải
quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp sau khi
quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, thì
quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu
chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ
ngày đăng ký kết hôn.
2. Đối với trường hợp nam và nữ chung sống với
nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 (ngày Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn, nhưng
chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng, thì theo quy
định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội họ có nghĩa vụ đăng ký
kết hôn kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003; do đó, cần phân biệt như
sau:
a. Kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003
nếu họ chưa đăng ký kết hôn hoặc đã đăng ký kết hôn mà họ có yêu cầu ly hôn,
thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý trong
trường hợp họ thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định tại điểm b khoản 3
Nghị quyết số 35 của Quốc hội, thì quan hệ của họ vẫn được công nhận là đã xác
lập kể từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng, chứ không phải kể
từ ngày đăng ký kết hôn.
Việc đăng ký kết hôn theo quy định tại điểm b
khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội do Bộ Tư pháp hướng dẫn.
b. Kể từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký
kết hôn, thì theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội họ
không được công nhận là vợ chồng; nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly
hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng điểm b khoản 3 Nghị quyết
số 35 của Quốc hội, khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, bằng
bản án tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có yêu cầu về nuôi con
và chia tài sản, thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 để giải quyết theo thủ tục chung.
c. Kể từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng ký kết
hôn và sau đó một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ
án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải
quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp này, thì
quan hệ vợ chồng của họ chỉ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ đăng ký
kết hôn.
d. Được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ
chồng, nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình
(một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác
hay tổ chức chứng kiến;
- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc,
giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau
như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau
được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với
nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung
sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
3. Đối với trường hợp nam và nữ bắt đầu chung
sống với nhau như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn,
thì theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, họ
không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu một trong các bên hoặc cả hai
bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng điểm c
khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có yêu cầu về
nuôi con và chia tài sản, thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết theo thủ tục chung.
4. Đối với trường hợp nam và nữ đã đăng ký kết
hôn mà từ ngày Thông tư liên tịch này có hiệu lực trở đi có yêu cầu ly hôn hoặc
có yêu cầu giải quyết vụ việc khác về hôn nhân và gia đình, thì theo quy định
tại khoản 4 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, việc Toà án áp dụng pháp luật về Luật
Hôn nhân và gia đình để giải quyết được thực hiện như sau:
a. Đối với những vụ án mà Toà án đã thụ lý trước
ngày 01/01/2001 thì áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 để giải quyết.
b. Đối với những vụ án mà Toà án thụ lý từ ngày
01/01/2001 thì áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
c. Trong trường hợp vụ án đã được Toà án thụ lý
trước ngày 01/01/2001, nhưng từ ngày 01/01/2001 trở đi mới giải quyết sơ thẩm,
phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, thì theo quy định tại khoản a điểm 4 Nghị quyết
số 35 của Quốc hội Toà án áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 để giải
quyết. Tuy nhiên, để có được quyết định đúng, Toà án cần xem xét tham khảo quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về vấn đề mà Toà án đang giải
quyết.
Ví dụ 1: Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình năm
1986 quy định "Về nguyên tắc, con còn bú được giao cho người mẹ nuôi
giữ" mà không quy định cụ thể độ tuổ. Khoản 2 Điều 92 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 quy định: "Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ
trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác"; do đó, mặc dù vẫn
áp dụng Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 để quyết định việc giao con
cho ai nuôi giữ, nhưng cần xem xét, tham khảo khoản 2 Điều 92 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 để hiểu khái niệm "con còn bú" là con dưới ba tuổi
và trong trường hợp các bên có thoả thuận thì có thể giao "con dưới ba
tuổi" cho người bố hoặc người khác nuôi giữ.
Ví dụ 2: Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm
1986 quy định một trong những nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn là: "khi
chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của người con chưa thành
niên", Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định một trong những
nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn là "bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân
sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để nuôi mình"; do đó,
mặc dù vẫn áp dụng nguyên tắc của Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
nhưng khi quyết định chia tài sản cần xem xét, tham khảo Điều 95 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con đã thành niên bị
tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có
tài sản để nuôi mình.
Ví dụ 3: Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm
1986 chỉ quy định việc chia tài sản khi ly hôn mà không quy định chia tài sản
khi ly hôn là quyền sử dụng đất của vợ, chồng, là nhà ở thuộc sở hữu chung của
vợ chồng và cũng không quy định việc giải quyết quyền lợi của vợ, chồng khi ly
hôn trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên như quy định tại các
Điều 97, 98 và 99 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; do đó, khi giải quyết
chia tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng hoặc là nhà ở thuộc sở hữu chung
của vợ chồng cũng như giải quyết quyền lợi của vợ chồng, trong trường hợp nhà ở
thuộc sở hữu riêng của một bên mặc dù vẫn áp dụng Điều 42 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1986, nhưng cần xem xét, tham khảo các Điều 97, 98 và 99 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 quy định tương ứng về các vấn đề đó để có được quyết định
đúng.
5. Đối với những vụ, việc đã được Toà án giải
quyết theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật, thì không áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,
Nghị quyết số 35 của Quốc hội và Thông tư này để kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm.
6. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 18/1/2001.
Trong quá trình thực hiện, nếu có gì vướng mắc hoặc chưa được hướng dẫn, cần
phải giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung, thì đề nghị phản ánh cho Toà án nhân
dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để có sự giải thích
hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời./.
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ VIỆN TRƯỞNG (Đã ký) Nguyễn Thị Tuyết |
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CHÁNH ÁN (Đã ký) Trịnh Hồng Dương |
BỘ TƯ PHÁP THỨ TRƯỞNG (Đã ký) Uông Chu Lưu |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét