BỘ CÔNG AN - BỘ QUỐC PHÒNG
- |
|
|
Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm
2017 |
Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm
quyền trong việc
thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Căn cứ Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015;
Căn cứ Luật Tổ chức cơ
quan điều tra hình sự năm 2015;
Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao liên tịch quy định
việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Thông tư liên tịch này
quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một
số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Thông tư liên tịch này áp
dụng đối với Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra, Viện kiểm sát; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều tra viên, Cán bộ
điều tra của Cơ quan điều tra, cấp trưởng, cấp phó, Cán bộ điều tra của Cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Công an xã, phường, thị
trấn, Đồn Công an, Trạm Công an và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên
quan đến việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố.
Trong Thông tư liên tịch
này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố là việc cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi tiến hành kiểm tra, xác minh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người tham gia tố tụng trong giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách
quan, toàn diện của nguồn tin về tội phạm.
2. Dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là việc
cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố khi tiến hành kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ khởi tố vụ án hình sự
nhưng không ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi
tố vụ án hình sự hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố.
Điều
4. Nguyên tắc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố
1. Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
2. Mọi tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời
theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và quy
định tại Thông tư liên tịch này.
3. Chỉ những cơ quan và
người có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
mới được tiến hành giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
4. Trong quá trình tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, người có thẩm
quyền phải nghiêm chỉnh thực hiện quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về
hành vi, quyết định của mình. Người làm trái pháp luật trong tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
5. Cơ quan tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có trách nhiệm thực
hiện yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm,
kiến nghị khởi tố về việc giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, kiến
nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa.
Điều
5. Trách nhiệm tiếp nhận, thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
1. Các cơ quan, tổ chức
có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm:
a) Cơ quan điều tra;
b) Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
c) Viện kiểm sát các cấp;
d) Các cơ quan, tổ chức
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 gồm: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án
các cấp; Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác.
2. Thẩm quyền giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm
a) Các cơ quan quy định
tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều này, trừ Đội An ninh ở Công an huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây viết gọn là Đội An ninh Công an cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra của mình.
b) Viện kiểm sát giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra,
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội
phạm hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản
nhưng sau 15 ngày kể từ ngày cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm nhận văn bản yêu cầu mà không được khắc phục.
Điều 6. Trách nhiệm tiếp nhận, thẩm
quyền giải quyết kiến nghị khởi tố
1. Cơ quan điều tra có
trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kiến nghị khởi tố theo thẩm quyền điều tra
của mình.
2. Viện kiểm sát có trách
nhiệm tiếp nhận mọi kiến nghị khởi tố và chuyển ngay đến Cơ quan điều tra có
thẩm quyền để giải quyết.
Viện kiểm sát giải quyết
kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh kiến nghị khởi tố hoặc có
dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng sau 15
ngày kể từ ngày cơ quan đang thụ lý, giải quyết kiến nghị khởi tố nhận văn bản
yêu cầu mà không được khắc phục.
Điều 7. Tổ chức tiếp nhận tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Cơ quan điều tra phải
tổ chức trực ban hình sự 24/24 giờ, Viện kiểm sát các cấp phải tổ chức trực
nghiệp vụ 24/24 giờ để tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố (kể cả tin báo về tội phạm trên các phương tiện thông tin đại
chúng); phân loại và chuyển ngay cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Địa
điểm tiếp nhận phải đặt ở nơi thuận tiện, có biển ghi tên cơ quan và thông báo
rộng rãi để mọi người biết.
Cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công
an, Trạm Công an phải bố trí cán bộ trực để tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm.
Các cơ quan, tổ chức khác
khi có tố giác, tin báo về tội phạm thì phải phân công người tiếp nhận.
2. Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi
nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố qua dịch vụ bưu
chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận.
Nếu cá nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm hoặc
đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến báo tin về tội phạm thì lập biên bản
tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận. Có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc
tiếp nhận.
Trường hợp người phạm tội
đến tự thú, đầu thú thì thực hiện theo trình tự, thủ tục theo quy định tại Điều 152 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Điều
8. Phân loại tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Cơ quan điều tra sau
khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải tiến hành
phân loại trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận. Trường hợp tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền thì giải quyết
theo quy định tại Điều 9 Thông tư liên tịch này. Nếu có căn cứ xác định tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì chuyển ngay
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đến Cơ quan điều tra có thẩm
quyền giải quyết trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi có căn cứ xác định.
Trong trường hợp không thể chuyển ngay thì phải thông báo bằng các hình thức
liên lạc nhanh nhất cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền biết.
2. Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (trừ Đội An ninh ở Công an cấp
huyện) sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm phải tiến hành phân loại
trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận. Trường hợp tố giác, tin
báo về tội phạm thuộc thẩm quyền thì giải quyết theo quy định tại Điều 9 Thông
tư liên tịch này. Nếu có căn cứ xác định tố giác, tin
báo về tội phạm không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì chuyển
ngay tố giác, tin báo về tội phạm đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết
trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi có căn cứ xác định. Trong trường hợp
không thể chuyển ngay thì phải thông báo bằng các hình thức liên lạc nhanh nhất
cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền biết.
3. Viện kiểm sát sau khi
tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải chuyển ngay cho
Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ
khi tiếp nhận. Trong trường hợp không thể chuyển ngay thì phải thông báo bằng
hình thức liên lạc nhanh nhất cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền biết.
4. Đội An ninh ở Công an
cấp huyện khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì
lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển tố giác, tin báo về tội
phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho cơ quan có thẩm quyền trong
thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận. Trong trường hợp không thể
chuyển ngay thì phải thông báo bằng hình thức liên lạc nhanh nhất cho Cơ quan
điều tra có thẩm quyền biết.
5. Công an phường, thị
trấn, Đồn Công an khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thì lập biên bản
tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển tố giác, tin báo về tội
phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền
trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận.
Công an xã khi tiếp nhận
tố giác, tin báo về tội phạm thì lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu,
thông báo và chuyển tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có
liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn không quá 24 giờ kể
từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Đối với các xã ở vùng rừng núi
xa xôi, hẻo lánh, hải đảo, điều kiện đi lại khó khăn thì thời hạn chuyển tố
giác, tin báo về tội phạm không quá 48 giờ kể từ khi tiếp nhận.
Trạm Công an khi tiếp
nhận tố giác, tin báo về tội phạm thì lập biên bản tiếp nhận và chuyển ngay tố
giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan
điều tra có thẩm quyền trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận.
Trường hợp khẩn cấp, cấp bách, cần ngăn chặn ngay tội phạm, thu thập chứng cứ, bảo vệ hiện trường thì Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an phải báo ngay đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền bằng hình thức liên lạc nhanh nhất và thực hiện các biện pháp giải quyết kịp thời theo quy định của pháp luật.
“5. Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thì thực hiện như sau:
a) Đối với tố giác, tin báo về hành vi phạm tội quả tang; tố giác, tin báo về hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc được dư luận xã hội quan tâm; tố giác, tin báo về tội phạm đã rõ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc rõ người bị tố giác mà có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ trốn, có căn cứ và cần thiết phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an lập biên bản tiếp nhận, báo ngay bằng các hình thức liên lạc nhanh nhất cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền; tổ chức ngay lực lượng đến bảo vệ hiện trường, lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị hại, người làm chứng hoặc những người có liên quan; xác minh, làm rõ nhân thân, lai lịch của người bị tố giác, bị hại và những người có liên quan; phát hiện, tạm giữ, bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan đến hành vi có dấu hiệu tội phạm và chuyển tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận; đối với các xã ở vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hải đảo, điều kiện đi lại khó khăn thì thời hạn chuyển tố giác, tin báo về tội phạm không quá 48 giờ kể từ khi tiếp nhận;
b) Đối với tố giác, tin báo về tội phạm không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai của người tố giác, báo tin về tội phạm, lấy lời khai người bị tố giác, người bị hại, người làm chứng và những người có liên quan; có mặt kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc, vẽ sơ đồ nơi xảy ra vụ việc, bảo vệ hiện trường; xác minh, làm rõ nhân thân, lai lịch của người bị tố giác, bị hại và những người có liên quan; xác minh sơ bộ thông tin về hậu quả thiệt hại; phát hiện, tạm giữ, bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan đến hành vi có dấu hiệu tội phạm và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Thời hạn kể từ khi tiếp nhận đến khi chuyển tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền không quá 07 ngày.
Trong quá trình xử lý tố giác, tin báo về tội phạm quy định tại điểm này mà có căn cứ xác định tố giác, tin báo về tội phạm thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an thực hiện theo quy định tại điểm a khoản này;
c) Trạm Công an khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thì lập biên bản tiếp nhận và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận;
d) Trường hợp khẩn cấp, cấp bách, cần ngăn chặn ngay tội phạm hoặc cần tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám xét hoặc trưng cầu giám định ngay thì Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an phải báo ngay đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền bằng hình thức liên lạc nhanh nhất và thực hiện các biện pháp xử lý kịp thời theo quy định của Thông tư liên tịch này;
đ) Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện hoạt động kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an.”.
theo Thông tư liên tịch 01/2021/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC
6. Tòa án, cơ quan báo
chí và các cơ quan, tổ chức khác sau khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm
có trách nhiệm chuyển và thông báo ngay tin đã nhận được cho Cơ quan điều tra
có thẩm quyền. Trường hợp khẩn cấp có thể báo tin trực tiếp qua điện thoại và
hình thức khác nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản.
7. Đối với tin báo về tội
phạm được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng đã xác định được dấu
hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan, đơn vị nào thì cơ quan,
đơn vị đó ghi nhận và giải quyết. Trường hợp chưa xác định được nơi xảy ra sự
việc hoặc liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mà tin báo
về tội phạm phản ánh thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện nơi có trụ
sở chính của phương tiện thông tin đại chúng (nơi có địa chỉ rõ ràng) có trách
nhiệm tiếp nhận, xử lý ban đầu.
Điều
9. Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Trong thời hạn 03 ngày
kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm
quyền giải quyết, Thủ trưởng Cơ quan điều tra trực tiếp tổ chức, chỉ đạo, phân
công Điều tra viên, Cán bộ điều tra thuộc quyền thụ lý, giải quyết hoặc ra
Quyết định phân công Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra tổ chức, chỉ đạo thụ lý,
giải quyết và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm
sát có thẩm quyền.
Đối với tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu của tội
phạm, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì Cơ quan điều tra ra Quyết định
khởi tố vụ án hình sự và thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2. Trong thời hạn 03 ngày
kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết,
cấp trưởng Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy
định tại khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
trực tiếp chỉ đạo việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, phân
công Cán bộ điều tra thuộc quyền hoặc ra Quyết định phân công cấp phó trong
việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thông báo bằng văn bản
cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Đối với tố giác, tin báo
về tội phạm sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu của tội phạm, đủ căn cứ để khởi
tố vụ án hình sự thì cấp trưởng ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và thực
hiện trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
3. Kết thúc quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố, cơ quan đã thụ lý, giải quyết phải ra một trong các quyết
định quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015.
Việc tạm đình chỉ, phục
hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được thực hiện
theo quy định tại Điều 148, Điều 149 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015.
1. Nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được thực hiện theo quy
định tại Điều 159, Điều 160 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
2. Trong thời hạn 03 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 9 Thông tư liên tịch
này, Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố, phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên hoặc ra Quyết
định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và gửi ngay một bản cho Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra đã ra Quyết định phân công giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Đối với tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã rõ về dấu hiệu của tội phạm mà Cơ quan điều
tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã ra Quyết
định khởi tố vụ án hình sự thì Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tổ chức, chỉ
đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, phân
công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng
tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố,
điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Điều
11. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Thời hạn giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không quá 20 ngày kể từ ngày cơ
quan có thẩm quyền nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức
tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng (trong trường hợp được Thủ trưởng ủy quyền hoặc phân công), cấp trưởng,
cấp phó (trong trường hợp được cấp trưởng ủy quyền hoặc phân công) cơ quan đang
thụ lý, giải quyết có thể kéo dài thời hạn giải quyết nhưng không quá 02 tháng
kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm
quyền giải quyết.
2. Trường hợp chưa thể
kết thúc việc kiểm tra, xác minh, chậm nhất 05 ngày trước khi hết thời hạn quy
định tại khoản 1 Điều này, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng (trong trường hợp được
Thủ trưởng ủy quyền hoặc phân công), cấp trưởng, cấp phó (trong trường hợp được
cấp trưởng ủy quyền hoặc phân công) cơ quan đang thụ lý, giải quyết phải có văn
bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn
thời hạn kiểm tra, xác minh. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được văn
bản đề nghị nêu trên, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền
phải xem xét, quyết định. Trường hợp đề nghị của cơ quan đang thụ lý, giải
quyết là có căn cứ thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát (trong
trường hợp được Viện trưởng ủy quyền hoặc phân công) ra Quyết định gia hạn thời
hạn kiểm tra, xác minh; thời hạn gia hạn kiểm tra, xác minh là không quá 02
tháng kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp xét
thấy đề nghị của cơ quan đang thụ lý, giải quyết là không có căn cứ thì Viện
trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát (trong trường hợp được Viện trưởng ủy
quyền hoặc phân công) ra văn bản thông báo nêu rõ lý do cho cơ quan đang thụ
lý, giải quyết và cơ quan đang thụ lý, giải quyết phải dừng việc kiểm tra, xác
minh, ra một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều 147
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
3. Thời hạn giải quyết
tiếp trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan đang thụ lý,
giải quyết là không quá 01 tháng kể từ ngày cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhận được quyết định hủy bỏ quyết
định tạm đình chỉ.
Thời hạn giải quyết tiếp
trong trường hợp cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố là không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục
hồi.
1. Đối với tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều
tra nhưng có nội dung liên quan đến nhiều đơn vị có chức năng giải quyết thuộc
Cơ quan điều tra thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thể quyết định tách tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để phân công. Văn bản phân công
phải gửi cho Viện kiểm sát có thẩm quyền.
2. Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mình, vừa có tội phạm
không thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì chuyển đến Cơ quan điều tra có
thẩm quyền toàn bộ nội dung tiếp nhận.
3. Trường hợp tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cùng một nội dung được gửi đến nhiều cơ
quan cùng có thẩm quyền giải quyết thì xử lý như sau:
a) Trường hợp Cơ quan
điều tra và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cùng
có thẩm quyền giải quyết thì Cơ quan điều tra có trách nhiệm giải quyết;
b) Trường hợp Cơ quan
điều tra cấp trên và Cơ quan điều tra cấp dưới cùng có thẩm quyền giải quyết
thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp trên quyết định; trường hợp Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra cấp trên và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra cấp dưới cùng có thẩm quyền giải quyết thì cấp trưởng Cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cấp trên quyết định.
4. Trong trường hợp cần
thiết, cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố đề nghị cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố khác tiến hành một số hoạt động xác minh, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Văn bản đề nghị phải ghi
rõ yêu cầu và gửi cho cơ quan có thẩm quyền, Viện kiểm sát cùng cấp với cơ quan
có thẩm quyền đó.
Cơ quan nhận được đề nghị
phải thực hiện đầy đủ những việc được đề nghị trong văn bản mà cơ quan đang thụ
lý, giải quyết đề nghị và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực
hiện. Trường hợp không thực hiện được việc thực hiện yêu cầu thì phải có văn
bản nêu rõ lý do gửi cơ quan đã gửi đề nghị.
Viện kiểm sát cùng cấp
với cơ quan được đề nghị có trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tiến hành hoạt động xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố của cơ quan được đề nghị và phải chuyển ngay kết quả cho Viện
kiểm sát cùng cấp với cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố.
5. Trường hợp có tranh
chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
thì thực hiện theo quy định tại Điều 150 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015.
1. Cơ quan điều tra, Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện yêu
cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2. Khi Viện kiểm sát có
yêu cầu cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố chuyển hồ sơ có liên quan để Viện kiểm sát trực tiếp thụ lý, giải quyết
thì cơ quan đang thụ lý, giải quyết phải chuyển hồ sơ có liên quan cho Viện
kiểm sát trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát có yêu cầu.
Trường hợp cơ quan đang
thụ lý giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không nhất
trí với yêu cầu của Viện kiểm sát thì vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến
nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày
nhận được kiến nghị của cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố,Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải
quyết và thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã kiến nghị.
Điều
14. Thông báo kết quả tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố
1. Trong thời hạn 03 ngày
làm việc kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận phải thông báo bằng văn bản về kết quả tiếp
nhận cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền, cơ quan, tổ
chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố biết.
2. Khi kết thúc việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải gửi kết quả
giải quyết cho Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định tại các điều 148, 154, 158 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
3. Trong thời hạn 03 ngày
kể từ ngày kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố có trách nhiệm thông báo cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố
giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố biết kết quả giải quyết vụ việc.
4. Trong thời hạn 03 ngày
kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải gửi quyết định phục hồi cho
Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền và cơ quan, tổ chức, cá
nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
1. Khi người tố giác, báo
tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và người bị hại
có yêu cầu, đề nghị về những vấn đề liên quan đến việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách
nhiệm của mình giải quyết yêu cầu, đề nghị đó và báo cho họ biết kết quả.
Trường hợp không chấp nhận yêu cầu, đề nghị thì Cơ quan điều tra, Cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả
lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
2. Trường hợp không đồng
ý với kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra hoặc Viện kiểm sát thì người tham gia tố tụng có
quyền khiếu nại. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy
định tại Chương XXXIII của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Điều
16. Chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt vi phạm hành chính
1. Đối với vụ việc tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do cơ quan có thẩm quyền thụ lý,
giải quyết, nhưng sau đó ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, nếu hành vi
có dấu hiệu vi phạm hành chính, thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra Quyết
định không khởi tố vụ án hình sự, cơ quan đã ra quyết định phải sao hồ sơ để
lưu và chuyển hồ sơ, tài liệu (bản chính), tang vật, phương tiện của vụ vi phạm
(nếu có) và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính.
2. Việc xử phạt vi phạm
hành chính được căn cứ vào hồ sơ vụ vi phạm do cơ quan đã giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố chuyển đến. Trường hợp cần thiết, người
có thẩm quyền xử phạt tiến hành xác minh thêm tình tiết để làm căn cứ ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính.
Thông
tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 3 năm 2018.
Thông tư liên tịch này
thay thế Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Các
cơ quan, đơn vị liên quan của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm
thi hành và tổ chức thực hiện hướng dẫn tại Thông tư liên tịch này.
Trong quá trình thực hiện Thông
tư liên tịch này nếu có vướng mắc, các cơ quan, đơn vị liên quan phản ánh về Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao để có hướng dẫn kịp thời.
|
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC
PHÒNG Thượng Tướng Lê Chiêm |
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN Thượng tướng Lê Quý Vương |
|
|
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG
NGHIỆP Hà Công Tuấn |
KT. VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM
SOÁT Nguyễn Hải Phong |
|||
|
|
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH Vũ Thị Mai |
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét