|
|
Số: 01/2018/TTLT-BCA-BQP- |
Hà Nội, ngày 23 tháng 01 năm 2018 |
Quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với
cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng và Viện kiểm sát có thẩm quyền
kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự ngày 27 tháng 11 năm 2015;
Căn cứ Luật Thi hành tạm
giữ, tạm giam ngày 25 tháng 11 năm 2015;
Căn cứ Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật ngày 22 tháng 06 năm 2015;
Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao liên tịch ban hành
quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng
và Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
Điều
1. Phạm vi điều chỉnh
Thông tư liên tịch này
quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ trong Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và Viện kiểm
sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam trong việc thi
hành tạm giữ, tạm giam.
1. Cơ quan, người có thẩm
quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
2. Cơ quan điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc Cơ
quan điều tra.
3.
Cơ quan, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
4. Viện kiểm sát, người
có thẩm quyền thuộc Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành tố tụng và Viện kiểm
sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
5. Tòa án, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thuộc Tòa án.
6. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
1. Việc phối hợp phải bảo
đảm tuân thủ các nguyên tắc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam quy định tại Điều 4 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
2. Việc phối hợp phải
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan theo quy định của
pháp luật.
3. Việc phối hợp phải bảo
đảm chủ động, thường xuyên, chặt chẽ, kịp thời, tạo điều kiện hỗ trợ nhau thực hiện tốt nhiệm vụ.
4. Việc phối hợp phải bảo
đảm chế độ bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật.
Điều
4. Phối hợp trong giao, nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam
1. Cơ quan đang thụ lý vụ
án có trách nhiệm bàn giao người bị tạm
giữ, người bị tạm giam, tài liệu, hồ sơ kèm theo, đồ vật, tư trang, tiền, tài
sản khác và trao đổi thông tin cần thiết liên quan đến người bị tạm giữ, người
bị tạm giam với cơ sở giam giữ để phân loại, bố trí giam giữ.
2. Cơ sở giam giữ có
trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra người, tài liệu, hồ sơ để xác định đúng người
bị tạm giữ, người bị tạm giam theo lệnh, quyết định của người có thẩm quyền;
việc giao, nhận phải lập biên bản.
3. Khi tiếp nhận người bị
tạm giữ, người bị tạm giam cơ sở giam giữ có trách nhiệm khám sức khỏe, kiểm
tra thân thể người bị tạm giữ, người bị tạm giam, trẻ em dưới 36 tháng tuổi đi
theo (nếu có). Trường hợp phát hiện người bị tạm giữ, người bị tạm giam có
thương tích, bị bệnh nặng hoặc có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần, bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình thì cơ sở giam giữ phối hợp với cơ quan, người bàn giao đưa người bị tạm
giữ, người bị tạm giam đến cơ sở y tế cấp huyện trở lên để khám xác định mức độ
bệnh tật, tình trạng sức khỏe, thương tích của họ. Biên bản giao, nhận phải ghi
rõ mức độ bệnh tật, tình trạng sức khỏe, dấu vết thương tích, kèm theo hồ sơ
khám xác định bệnh tật, thương tích của cơ sở y tế.
4. Khi bàn giao người bị
tạm giữ, người bị tạm giam cho cơ sở giam giữ, cơ quan đang thụ lý vụ án thấy
việc cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp thân nhân ảnh hưởng nghiêm
trọng đến việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 22 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam thì cơ quan đang thụ lý
vụ án phải có văn bản đề nghị không cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp
thân nhân; văn bản nêu rõ lý do, thời hạn không cho gặp; cơ sở giam giữ có
trách nhiệm thông báo cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam và thân nhân của
họ biết khi có yêu cầu thăm gặp.
Điều
5. Phối hợp trong bố trí giam giữ để bảo đảm yêu cầu Điều tra
1. Khi có yêu cầu bố trí
giam giữ để bảo đảm yêu cầu điều tra thì Cơ quan điều tra đang thụ lý vụ án có văn bản nêu rõ nội dung và
thời gian áp dụng, gửi Thủ trưởng cơ sở giam giữ để thực hiện. Đồng thời thường
xuyên trao đổi với cơ sở giam giữ về những
thông tin liên quan; phối hợp với cơ sở giam giữ bảo đảm tuyệt, đối an toàn
trong việc bố trí giam giữ. Khi kết thúc, Cơ quan điều tra đang thụ lý vụ án có
văn bản đánh giá kết quả và gửi Thủ
trưởng cơ sở giam giữ.
2. Cơ sở giam giữ có
trách nhiệm phối hợp thực hiện bố trí giam giữ để bảo đảm yêu cầu điều tra; trường hợp không thể thực hiện được thì Thủ
trưởng cơ sở giam giữ phải trao đổi ngay bằng văn bản với Cơ quan điều tra đang thụ lý vụ án.
3. Khi Viện kiểm sát tiến
hành kiểm sát việc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, cơ sở giam giữ phải
thông báo cho Kiểm sát viên biết việc bố trí giam giữ phục vụ yêu cầu điều tra.
1. Cơ quan đang thụ lý vụ
án, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm trao đổi kịp thời các
thông tin có liên quan về người bị tạm giữ, người bị tạm giam phục vụ công tác
quản lý giam giữ.
2. Khi có yêu cầu của cơ
quan đang thụ lý vụ án, cơ sở giam giữ trao đổi thông tin về diễn biến tư
tưởng, thái độ chấp hành nội quy cơ sở giam giữ, tình trạng sức khỏe và các
thông tin liên quan đến người bị tạm giữ, người bị tạm giam phục vụ công tác
giải quyết vụ án.
Cơ sở giam giữ có trách
nhiệm thông báo bằng văn bản các trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam
trước khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 13 của Luật
Thi hành tạm giữ, tạm giam.
3. Cơ quan đang thụ lý vụ
án có trách nhiệm xử lý kịp thời thông báo của cơ sở giam giữ về thời hạn tạm
giữ, thời hạn tạm giam đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; thông báo
bằng văn bản cho cơ sở giam giữ biết khi chuyển hồ sơ vụ án đến cơ quan khác
thụ lý.
Điều
7. Phối hợp quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam khi trích xuất để thực
hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
tại cơ sở giam giữ
1. Cơ quan đang thụ lý vụ
án có yêu cầu trích xuất người bị tạm giữ, người bị tạm giam để phục vụ hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử hoặc
tống đạt các lệnh, quyết định tố tụng và văn bản hành chính tư pháp của Viện
kiểm sát, Tòa án nhân dân với bị can, bị cáo bên trong khu vực cơ sở giam giữ
thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ cử cán bộ áp giải, bàn giao và phối hợp quản lý,
giám sát. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được phân công giải quyết vụ án
có trách nhiệm trực tiếp quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong quá
trình làm việc đảm bảo an toàn, đúng quy định. Việc giao, nhận phải ghi chép
đầy đủ và ký nhận vào sổ.
2. Người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng được phân công giải quyết vụ án khi có yêu cầu làm việc với
người bị tạm giữ, người bị tạm giam tại cơ sở giam giữ thì phải xuất trình
quyết định phân công thụ lý, giải quyết vụ án hoặc văn bản đồng ý của Thủ
trưởng hoặc người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án.
Trường hợp có yêu cầu làm việc với người bị tạm
giữ, người bị tạm giam của vụ án khác, phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thủ
trưởng hoặc người có thẩm quyền cơ quan đang thụ lý vụ án đó.
3. Trường hợp người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng được phân công giải quyết vụ án có yêu cầu đưa bị
can, bị cáo đang tại ngoại hoặc người tham gia tố tụng khác để thực hiện các
hoạt động tố tụng tại cơ sở giam giữ phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thủ
trưởng hoặc người có thẩm quyền cơ quan đang thụ lý vụ án và gửi cho Thủ trưởng
cơ sở giam giữ biết trước khi thực hiện.
Điều
8. Phối hợp quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam khi trích xuất ra ngoài
cơ sở giam giữ để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố
1. Trường hợp thực hiện
lệnh trích xuất người bị tạm giữ, người bị tạm giam ra ngoài khu vực cơ sở giam
giữ, cơ quan áp giải phải có kế hoạch áp giải, quản lý; việc giao, nhận phải
lập biên bản, ghi rõ tình trạng sức khỏe của người đó và ghi vào sổ theo dõi;
cơ sở giam giữ trao đổi những thông tin liên quan đến người bị tạm giữ, người
bị tạm giam cho cán bộ có trách nhiệm áp giải, quản lý.
Trường hợp trích xuất
người bị tạm giữ, người bị tạm giam để phục vụ hoạt động điều tra trong vụ án khác thì phải được sự đồng ý bằng văn
bản của cơ quan đang thụ lý vụ án đó.
2. Khi hết thời hạn trích
xuất hoặc chưa hết thời hạn trích xuất nhưng đã hoàn thành mục đích trích xuất thì cơ quan có yêu cầu trích xuất, cơ
quan, người có nhiệm vụ áp giải bàn giao người được trích xuất cho cơ sở giam
giữ; Thủ trưởng cơ sở giam giữ phải tổ chức tiếp nhận người bị tạm giữ, người
bị tạm giam theo quy định.
Trường hợp hết thời hạn
trích xuất, nếu có nhu cầu tiếp tục trích xuất thì cơ quan có yêu cầu trích
xuất phải có lệnh gia hạn trích xuất, ghi rõ lý do; thời hạn trích xuất và gia
hạn trích xuất không được dài hơn thời hạn tạm giữ, tạm giam còn lại và thông
báo cho cơ sở giam giữ biết.
3. Trường hợp trích xuất
nhiều người bị tạm giữ, người bị tạm giam cùng một lúc hoặc đối tượng phạm tội
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm ra ngoài khu vực cơ
sở giam giữ phục vụ hoạt động tố tụng thì cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải
phải có kế hoạch để đảm bảo tuyệt đối an toàn.
Điều
9. Phối hợp giải quyết cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp thân nhân
1. Việc phối hợp trong tổ
chức cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp thân nhân thực hiện theo quy
định tại Điều 22 và Điều 34 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
2. Trường hợp cơ quan
đang thụ lý vụ án có yêu cầu giám sát, theo dõi việc thăm gặp thì Thủ trưởng cơ
sở giam giữ kịp thời thông báo cho cơ quan đang thụ lý
vụ án biết thời điểm thăm gặp để phối hợp. Cơ quan đang thụ lý vụ án có yêu cầu
giám sát, theo dõi việc thăm gặp thì cử cán bộ phối hợp với cơ sở giam giữ để
thực hiện.
3. Khi tổ chức thăm gặp,
nếu người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc thân nhân của họ có hành vi vi
phạm nội quy cơ sở giam giữ hoặc cản trở việc giải quyết vụ án thì cán bộ giám
sát phải dừng ngay cuộc gặp và lập biên bản báo cáo với Thủ trưởng cơ sở giam
giữ và thông báo bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết để xử lý.
Điều
10. Phối hợp giải quyết cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp người bào
chữa
1. Việc phối hợp, tổ chức
cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp người bào chữa thực hiện theo quy
định tại Điều 80 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 22, Điều 34 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
2. Khi nhận được văn bản
thông báo người bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam của cơ quan
đang thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho người bào chữa được gặp người
bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp cần phải
giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý
vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát. Nếu
người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người bào chữa có hành vi vi phạm nội quy
cơ sở giam giữ hoặc cản trở việc giải quyết vụ án thì người có thẩm quyền giám
sát phải dừng ngay cuộc gặp và lập biên bản, báo cáo với Thủ trưởng cơ sở giam
giữ và thông báo bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết để xử lý.
4. Trường hợp người bào
chữa có yêu cầu gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam tại nơi khám bệnh, chữa
bệnh ngoài cơ sở giam giữ thì cơ sở giam giữ trao đổi với bác sỹ điều trị; trường hợp được
sự đồng ý của bác sỹ điều trị thì cơ sở giam
giữ thông báo cho người bào chữa biết, đồng thời thông báo cho cơ quan đang thụ
lý vụ án để có biện pháp phối hợp kịp thời. Người có thẩm quyền của cơ sở giam
giữ phải quản lý, giám sát chặt chẽ không để người bào chữa đưa, chuyển đồ vật
cấm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc có vi phạm khác về việc thăm
gặp, gây cản trở việc giải quyết vụ án.
1. Việc phối hợp tổ chức
thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự, tổ chức nhân đạo đối với người bị tạm giữ, người bị
tạm giam là người nước ngoài thực hiện theo Điều 22 của Luật Thi
hành tạm giữ, tạm giam.
2. Khi nhận được yêu cầu
tiếp xúc lãnh sự, tổ chức nhân đạo đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam
là người nước ngoài, cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm chủ trì, phối hợp
với cơ sở giam giữ trả lời bằng văn bản về việc đồng ý hoặc không đồng ý cho
tiếp xúc lãnh sự, tổ chức nhân đạo để thông báo cho cơ quan ngoại giao, tổ chức
nhân đạo.
Trường hợp đồng ý cho
tiếp xúc lãnh sự, tổ chức nhân đạo thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định cụ
thể thời điểm, địa điểm tổ chức tiếp xúc lãnh sự, tổ chức nhân đạo bằng văn
bản, lưu hồ sơ giam giữ.
Trường hợp cơ quan đang
thụ lý vụ án có yêu cầu giám sát thì phối hợp với cơ sở giam giữ để tổ chức
thực hiện.
Điều
12. Phối hợp trong việc điều chuyển người bị tạm
giữ, người bị tạm giam giữa các cơ sở giam giữ
1. Phối hợp trong việc điều chuyển người bị tạm giữ, người bị tạm giam giữa các
cơ sở giam giữ thực hiện theo khoản 4 Điều 19 của Luật Thi hành
tạm giữ, tạm giam.
2. Khi nhận được quyết
định điều chuyển người bị tạm giữ,
người bị tạm giam của cơ quan, người có thẩm quyền thì Thủ trưởng cơ sở giam
giữ nơi chuyển đi có trách nhiệm bàn giao
người, hồ sơ, đồ vật, tư trang, tiền, tài sản khác đã gửi lưu ký cho cơ quan,
người có nhiệm vụ áp giải điều chuyển. Cơ sở giam
giữ nơi nhận có trách nhiệm tổ chức tiếp nhận, bố trí giam giữ, báo cáo Thủ
trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam và Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ,
tạm giam biết.
Điều
13. Phối hợp quản lý người bị tạm giam khi trích xuất phục vụ xét xử tại phiên
tòa
1. Tòa án có thẩm quyền phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét
xử và lệnh trích xuất người bị tạm giam cho cơ sở giam giữ nơi đang giam giữ
người bị tạm giam chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa, đồng thời trao đổi với cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải về tính chất
phức tạp của vụ án, mức độ nguy hiểm, số lượng đối tượng đưa ra xét xử.
2. Cơ quan có nhiệm vụ áp
giải phải phối hợp với cơ sở giam giữ xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện
việc áp giải người bị tạm giam đến địa điểm mở phiên tòa đúng thời gian, phối
hợp với lực lượng bảo vệ phiên tòa đảm bảo an ninh, an toàn trong quá trình áp
giải và quá trình xét xử tại phiên tòa.
3. Cơ quan, người có
nhiệm vụ áp giải có trách nhiệm bàn giao người bị tạm giam được trích xuất để
phục vụ xét xử tại phiên tòa cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
Khi kết thúc phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm bàn giao
người bị tạm giam được trích xuất cho cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải, trừ
trường hợp người bị tạm giam là bị cáo được trả tự do theo bản án, quyết định
của Tòa án; trường hợp hết thời hạn tạm giam thì phải kèm theo Quyết định tạm
giam, trừ trường hợp bị cáo bị phạt tử hình theo quy định tại khoản 4 Điều
329 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc bàn giao phải được lập thành biên bản, có
ghi rõ tình trạng sức khỏe.
4. Trong quá trình xét
xử, trường hợp phiên tòa tạm nghỉ mà không có điều
kiện áp giải người bị tạm giam về cơ sở giam giữ phải lưu lại tại nơi xét xử
thì Tòa án bố trí nơi để quản lý người bị tạm giam; cơ quan, người có nhiệm vụ
áp giải có trách nhiệm quản lý, giám sát chặt chẽ, phối hợp với cơ sở giam giữ
tổ chức cho người bị tạm giam ăn, uống theo chế độ quy định.
1. Trường hợp đưa người
bị tạm giữ, người bị tạm giam đi khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế ngoài cơ
sở giam giữ thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ ra lệnh trích xuất; đồng thời thông
báo bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án, Viện kiểm sát có thẩm quyền
kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam biết và thông báo cho thân nhân
hoặc đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam biết để phối hợp
chăm sóc, điều trị.
Khi nhận được thông báo
của cơ sở giam giữ, nếu cần phối hợp quản lý, giám sát thì cơ quan đang thụ lý
vụ án cử cán bộ phối hợp với cơ sở giam giữ để có biện pháp quản lý, giám sát
chặt chẽ người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong thời gian khám bệnh, chữa
bệnh.
2. Trường hợp cơ quan
đang thụ lý vụ án cần làm việc với người bị tạm giữ, người bị tạm giam tại nơi
khám bệnh, chữa bệnh phải trao đổi trực tiếp và được sự nhất trí của bác sỹ điều trị và phối hợp với cơ sở giam giữ để thực hiện.
3. Trường hợp cần trưng
cầu giám định pháp y, pháp y tâm thần đối với người bị tạm giữ, người bị tạm
giam thì cơ quan đang thụ lý vụ án chủ trì hoàn chỉnh các thủ tục đề nghị giám định, phối hợp với cơ quan,
người có nhiệm vụ áp giải người bị tạm giữ, người bị tạm giam đến nơi giám
định.
Cơ quan, người có nhiệm
vụ áp giải có trách nhiệm phối hợp với cơ quan giám định quản lý, giám sát
người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong quá trình giám định. Cơ quan đang thụ
lý vụ án có trách nhiệm gửi bản sao kết quả giám định cho cơ sở giam giữ.
Trường hợp có quyết định
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan đang
thụ lý vụ án chủ trì phối hợp với cơ sở giam giữ đưa người bị tạm giữ, người bị
tạm giam đến cơ sở chữa bệnh nêu trong quyết định.
Điều
15. Phối hợp giải quyết trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam bỏ trốn
1. Việc phối hợp giải
quyết trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam bỏ trốn được thực hiện
theo Điều 25 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
2. Khi người bị tạm giữ,
người bị tạm giam trốn khỏi cơ sở giam giữ thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ có
trách nhiệm tổ chức ngay lực lượng truy bắt đối tượng bỏ trốn, áp dụng các biện
pháp khẩn cấp, bảo vệ hiện trường, lập biên bản, báo cáo vụ việc với cơ quan quản
lý tạm giữ, tạm giam trực tiếp. Đồng thời thông báo ngay bằng văn bản cho cơ quan
đang thụ lý vụ án; Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý,
thi hành tạm giữ, tạm giam.
3. Khi người bị tạm giữ,
người bị tạm giam bỏ trốn trong trường hợp được trích xuất ra ngoài cơ sở giam
giữ hoặc tại phiên tòa thì cơ quan, người có trách nhiệm áp giải phải tổ chức
truy bắt ngay đối tượng bỏ trốn, đồng thời thông báo cho cơ sở giam giữ, cơ
quan đang thụ lý vụ án; Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý,
thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật.
4. Khi nhận được thông
báo của Thủ trưởng cơ sở giam giữ về việc người bị tạm giữ, người bị tạm giam
bỏ trốn, Cơ quan Điều tra phối hợp truy bắt và tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
Điều
16. Phối hợp giải quyết trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam chết
1. Việc phối hợp giải
quyết trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam chết thực hiện theo Điều 26 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
2. Thủ trưởng cơ sở giam
giữ có trách nhiệm báo cáo vụ việc với cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam trực
tiếp. Đồng thời thông báo ngay bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án, Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát có thẩm
quyền tiến hành tố tụng; Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành
tạm giữ, tạm giam.
3. Cơ quan điều tra vụ án có người bị tạm giữ, người bị tạm giam chết
phải trao đổi với cơ sở giam giữ những thông
tin liên quan đến việc đảm bảo an ninh, trật tự đối với trường hợp giải quyết
cho thân nhân của người chết có đơn đề nghị xin nhận thi hài về an táng.
4. Trường hợp người bị
tạm giữ, người bị tạm giam chết mà không có nơi cư trú rõ ràng, không xác định
được thân nhân, người đại diện hợp pháp thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ trao đổi
thống nhất với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
có thẩm quyền để tổ chức an táng.
Điều
17. Phối hợp trong việc trực tiếp kiểm sát tại cơ sở giam giữ
1. Cơ sở giam giữ có
trách nhiệm phối hợp với Viện kiểm sát khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát tại cơ sở giam giữ theo quy định tại khoản 2 Điều
42 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam; cử cán bộ phối hợp khi Kiểm sát
viên gặp, hỏi người bị tạm giữ, người bị tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam;
kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam và thực hiện ngay quyết định trả tự do cho
người bị tạm giữ, người bị tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật của cơ
quan, người có thẩm quyền.
2. Việc kiểm sát hàng
ngày tại nhà tạm giữ, hàng tuần tại trại tạm giam của Viện kiểm sát phải được
ghi vào sổ, nếu phát hiện vi phạm phải lập biên bản có ký xác nhận của đại diện
cơ sở giam giữ và Kiểm sát viên.
Việc kiểm sát định kỳ, đột xuất phải có quyết định và do Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được phân
công tiến hành khi kết thúc phải có kết luận bằng văn bản. Trước khi tiến hành
kiểm sát định kỳ ít nhất 05 ngày làm việc, Viện kiểm sát có quyết định, kế
hoạch gửi cho cơ sở giam giữ. Quyết định, kết luận kiểm sát, kiến nghị và kháng
nghị (nếu có) phải được gửi cho cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp trên trực
tiếp để phối hợp chỉ đạo.
3.
Cơ sở giam giữ có trách
nhiệm bố trí phòng hoặc địa điểm làm việc; cung cấp hồ sơ, tài liệu và báo cáo
các nội dung theo yêu cầu để Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát quản lý, thi hành
tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật.
Điều 18. Phối hợp trong việc xử lý
các vụ, việc đột xuất tại cơ sở giam giữ
1. Khi xảy ra các vụ,
việc đột xuất như thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; người bị tạm giữ, người bị
tạm giam có hành vi chống phá, gây rối trật tự, phạm tội mới hoặc các vụ, việc
đột xuất khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đảm bảo an toàn của cơ sở giam
giữ thì cơ sở giam giữ phải báo cáo ngay bằng văn bản cho cơ quan quản lý tạm giữ,
tạm giam trực tiếp và Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành
tạm giữ, tạm giam.
2. Trường hợp do điều kiện thực tế mà nhà tạm giữ, trại tạm giam, buồng tạm
giữ đồn biên phòng không thể đáp ứng được yêu cầu giam giữ riêng hoặc để đảm
bảo an toàn cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thì Thủ trưởng cơ sở giam
giữ chủ trì, phối hợp với cơ quan đảng thụ lý vụ án để ra
quyết định bằng văn bản về những người được giam giữ chung.
Trường hợp để bảo đảm yêu
cầu điều tra, truy tố, xét xử thì cơ
quan đang thụ lý vụ án chủ trì, phối hợp với cơ sở giam giữ để Thủ trưởng cơ sở
giam giữ ra quyết định bằng văn bản về những người được giam giữ chung.
Cơ sở giam giữ thông báo
cho Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam về
những người được giam giữ chung khi kiểm sát tại cơ sở giam giữ.
1. Việc phối hợp thực
hiện các yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát trong
quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam thực hiện theo quy định tại Điều
43 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
2. Cơ quan, người có thẩm
quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời cho Viện kiểm sát trong thời
hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm
sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
Điều
20. Phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm
giam
1. Cơ sở giam giữ khi nhận được khiếu nại, tố cáo về quản lý, thi hành tạm giữ,
tạm giam của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác có liên quan thì phải vào sổ theo dõi; trong thời hạn 24 giờ kể từ khi
nhận được khiếu nại, tố cáo phải chuyển đơn đến Viện kiểm sát có thẩm quyền
kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam giải quyết theo quy định.
2. Viện kiểm sát có thẩm
quyền có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại và
người bị khiếu nại trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định giải quyết khiếu nại; thông báo về kết luận
nội dung tố cáo cho người tố cáo theo yêu cầu.
Điều
21. Phối hợp trong huy động lực lượng của cơ sở giam giữ
1. Cơ quan đang thụ lý vụ
án nếu có yêu cầu cơ sở giam giữ cử người tham gia phối hợp thực hiện các hoạt
động tố tụng hình sự thì phải có văn bản trao đổi trước ít nhất 01 ngày với cơ
sở giam giữ về nội dung, yêu cầu phối hợp, số lượng người tham gia, thời gian,
địa điểm thực hiện.
Thủ trưởng cơ sở giam giữ
có trách nhiệm cử người tham gia phối hợp thực hiện yêu cầu của cơ quan đang
thụ lý vụ án theo chức năng, nhiệm vụ được giao; nếu không thể thực hiện được
yêu cầu thì phải trao đổi lại ngay để cơ quan đang thụ lý vụ án
biết.
2. Các trường hợp tiến
hành hoạt động tố tụng hình sự trong cơ sở giam giữ thì cơ quan, người tiến
hành tố tụng phải trao đổi thống nhất với Thủ trưởng cơ sở giam giữ về nội
dung, yêu cầu cần phối hợp và chấp hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm
giam.
Thông
tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12 tháng 3 năm 2018.
Điều
23. Trách nhiệm tổ chức thi hành
1. Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Thông
tư liên tịch này.
2. Trong quá trình thực hiện
Thông tư liên tịch, nếu có vướng mắc, các cơ quan, đơn vị báo cáo về Bộ Công
an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để
có hướng dẫn, giải quyết kịp thời./.
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC
PHÒNG Thượng tướng Lê Chiêm |
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN Trung tướng Nguyễn Văn Sơn |
KT. CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN
DÂN Nguyễn Trí Tuệ |
KT. VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO Lê Hữu Thể |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét