BỘ TƯ PHÁP-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO-TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỐI CAO |
|
Số: 06-89/TTLN |
Hà Nội , ngày 07 tháng 12 năm 1989 |
THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH
Hướng dẫn thực hiện một số quy định của
Pháp lệnh Thi hành án dân sự
Để thi hành Pháp
lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các
cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
I. THẨM QUYỀN
RA QUYẾT ĐỊNH THI HÀNH ÁN (Điều 4
Pháp lệnh)
1. Theo Điều 4
Pháp lệnh thì người được thi hành án có quyền gửi đơn đến Chánh án Toà án đã
xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm hoặc sơ thẩm đồng thời là chung thẩm để yêu
cầu thi hành án. Theo Điều 4 Pháp lệnh thì Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm vụ án
hoặc Chánh án Toà án đã được uỷ thác việc thi hành án ra quyết định thi hành
án. Chánh án Toà án cấp tỉnh cũng có thể ra quyết định thi hành án khi được
Chánh án Toà án tối cao ra quyết định giao cho việc thi hành bản án, quyết định
sơ thẩm đồng thời là chung thẩm. Do đó, khi thực hiện Điều 4 Pháp lệnh cần chú
ý một số điểm sau đây:
a. Chánh án Toà án
đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án trong trường hợp Toà án này trực tiếp
thi hành án. Nếu Toà án đã xử sơ thẩm không có điều kiện trực tiếp thi hành án
thì Chánh án Toà án này uỷ thác việc thi hành án cho Chánh án Toà án nơi người
phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến thi hành án để
Chánh án Toà án nhận được uỷ thác ra quyết định thi hành án và giao cho chấp
hành viên của Toà án mình thi hành.
b. Khi được Chánh
án Toà án nhân dân tối cao giao cho việc thi hành bản án hoặc quyết định sơ
thẩm đồng thời là chung thẩm, nếu Toà án cấp tỉnh trực tiếp thi hành án thì
Chánh án Toà án cấp tỉnh ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên
của Toà án mình thi hành. Nếu Toà án cấp tỉnh không có điều kiện trực tiếp thi
hành án thì Chánh án Toà án cấp tỉnh uỷ thác việc thi hành án cho Chánh án Toà
án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến
việc thi hành án để Chánh án Toà án nhận được uỷ thác ra quyết định thi hành án
và giao cho chấp hành viên của Toà án mình thi hành.
c. Sau khi đã ra
quyết định thi hành án mà thấy không có điều kiện thi hành thì Chánh án của Toà
án đã ra quyết định thi hành án rút quyết định đó và uỷ thác việc thi hành án
cho Chánh án Toà án nơi có điều kiện thi hành để Chánh án Toà án nhận được uỷ
thác ra quyết định thi hành án cho chấp hành viên của Toà án mình thi hành.
d. Nếu trong quá
trình thi hành án người phải thi hành án chuyển đến cư trú, làm việc ở địa hạt
của Toà án khác hoặc tài sản có thể khấu trừ ở nơi đang thi hành án không còn,
thì chấp hành viên đề nghị Chánh án Toà án ra quyết định uỷ thác việc thi hành
án cho Chánh án Toà án nơi thi hành án mới để Chánh án Toà án nơi nhận được uỷ
thác ra quyết định thi hành phần bản án quyết định còn lại.
2. Các Toà án cấp
tỉnh có thể uỷ thác việc thi hành án thẳng cho Toà án cấp huyện của tỉnh khác.
Toà án cấp huyện của tỉnh này có thể uỷ thác việc thi hành án cho Toà án cấp
tỉnh hoặc Toà án cấp huyện của tỉnh khác. Sau khi nhận được uỷ thác, nếu thấy
việc thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án khác, Toà án nhận được uỷ thác có
nhiệm vụ chuyển tiếp cho Toà án có thẩm quyền và báo cho Toà án đã uỷ thác biết
và nếu không biết Toà án nào có thẩm quyền thì trả lại cho Toà án đã uỷ thác.
Chấp hành viên
phải báo cho Viện kiểm sát cùng cấp và người được thi hành án biết việc uỷ thác
thi hành án đến nơi thi hành án mới.
3. Nếu có tranh
chấp về thẩm quyền thi hành án thì Chánh án Toà án cấp tỉnh giải quyết tranh
chấp giữa các Toà án thuộc cùng một tỉnh; các Chánh án Toà án cấp tỉnh hoặc
Chánh án Toà án cấp quân khu phối hợp giải quyết tranh chấp giữa hai Toà án
khác tỉnh hoặc giữa Toà án nhân dân và Toà án quân sự.
II. THỜI HIỆU
THI HÀNH ÁN (Điều 16 Pháp lệnh)
1. Pháp lệnh quyết
định thời hiệu thi hành án là thời hạn bản án hoặc quyết định của Toà án có
hiệu lực thi hành, hết thời hạn đó, nếu không có những căn cứ theo quy định của
Pháp lệnh thì bản án hoặc quyết định hết hiệu lực thi hành. Điều đó có nghĩa
là:
a. Đối với trường
hợp người được thi hành án là công dân: nếu trong thời hạn ba năm kể từ ngày
bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật mà họ không yêu cầu Toà án thi
hành án thì sau đó họ không có quyền yêu cầu Toà án và người phải thi hành án
thi hành nữa.
b. Đối với trường
hợp người được thi hành án là cơ quan, tổ chức: nếu trong thời hạn một năm kể
từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật mà họ không yêu cầu Toà án
thi hành án, thì sau đó họ cũng không có quyền yêu cầu Toà án và người phải thi
hành án thi hành nữa. Theo quy định tại khoản 2, Điều 15 Pháp lệnh thì Chánh án
Toà án phải chủ động ra quyết định thi hành án đối với các bản án hoặc quyết
định của Toà án về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ
nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí. Do đó, nếu cơ quan, tổ chức được
trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại không yêu cầu Toà án thi hành án
trong thời hạn nói trên, nhưng Toà án đã chủ động thi hành thì Toà án nộp tài
sản thi hành được vào ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó (bỏ
quên, thất lạc hoặc cố ý không đưa bản án ra thi hành...) mà cơ quan, tổ chức
được thi hành án không yêu cầu thi hành án và Toà án cũng không chủ động đưa ra
bản án, quyết định của Toà án ra thi hành, thì sau thời hạn một năm Toà án cũng
không được đưa ra bản án, quyết định ra thi hành nữa. Đối với người có lỗi làm
việc không đưa bản án, quyết định của Toà án ra thi hành trong thời hạn nói
trên gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà
xử lý kỷ luật, buộc bồi thường thiệt hại theo chế độ trách nhiệm vật chất,
trách nhiệm dân sự hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật.
2. Đối với trường
hợp trong bản án hoặc quyết định của Toà án có quy định việc thi hành theo định
kỳ, mà người phải thi hành án đã thi hành được một phần, nhưng sau đó ngừng thi
hành, thì người được thi hành án là công dân có quyền yêu cầu Toà án thi hành
án trong thời hạn 3 năm; đối với cơ quan, tổ chức thì thời hạn là 1 năm kể từ
ngày người phải thi hành án ngừng thi hành.
III. HOÃN THI
HÀNH ÁN, TẠM ĐÌNH CHỈ THI HÀNH ÁN
(Các Điều 18, 19 Pháp lệnh)
1. Theo khoản 2
Điều 18 Pháp lệnh thì khi cần thiết, Chánh án Toà án hoặc Viện trưởng Viện kiểm
sát cấp trên có quyền yêu cầu Toà án nơi thi hành án hoãn thi hành án để xem
xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. khi thực hiện quy
định này cần chú ý là chỉ trong những trường hợp qua báo cáo của Chánh án Toà
án, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới hoặc qua các nguồn thông tin khác mà
Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên thấy bản án, quyết định của
Toà án có vi phạm hoặc có khả năng là có vi phạm pháp luật, cho nên cần phải
hoãn ngay việc thi hành để tránh những hậu quả không thể khắc phục được hoặc
khó khắc phục như buộc phải dỡ nhà, trả nhà..., thì mới yêu cầu hoãn thi hành
án. Văn bản yêu cầu hoãn thi hành án do Chánh án Toà án hoặc Viện trưởng Viện
kiểm sát ký hoặc do Phó Chánh án Toà án, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát ký thay.
Người có thẩm quyền yêu cầu hoãn thi hành án không được uỷ quyền cho người khác
yêu cầu hoãn thi hành án.
Yêu cầu hoãn thi
hành án có thể được thông báo trực tiếp hoặc bằng văn bản, nhưng nếu thông báo
trực tiếp quan điện thoại, điện tín. .., thì sau đó cũng phải có văn bản gửi
cho Toà án nơi thi hành án. Khi chưa có văn bản mà cần thông báo ngay thì phải
do Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
trực tiếp thông báo. Nếu đã có văn bản mà cần thông báo ngay bằng điện thoại,
điện tín thì người được giao nhiệm vụ thông báo phải nói rõ họ, tên và chức vụ
của mình, số của văn bản, ngày ra văn bản, nội dung chủ yếu của văn bản, người
đã ký văn bản. Người nhận thông báo cũng phải cho người thông báo biết họ, tên
và chức vụ của mình để xác định trách nhiệm khi cần thiết.
Người yêu cầu cần
hoãn thi hành án phải nêu rõ thời gian hoãn thi hành án. Dù yêu cầu hoãn một
lần hoặc nhiều lần thì tổng số hoãn thi hành án cũng không được vượt quá ba
tháng.
Khi nhận được
thông báo trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu hoãn thi hành án, Chánh án Toà án
nơi thi hành án phải ra ngay quyết định hoãn thi hành án theo thời hạn do người
có thẩm quyền yêu cầu hoãn thi hành án ấn định và tổng số thời gian hoãn thi
hành án trong trường hợp này không được vượt quá ba tháng. Hết thời hạn đó, nếu
không có các căn cứ để hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án hoặc đình chỉ
thi hành án, theo quy định của Pháp lệnh, thì Chánh án Toà án nơi thi hành án
phải đưa ngay bản án ra thi hành.
2. Theo khoản 1
Điều 19 Pháp lệnh thì người đã kháng nghị bản án hoặc quyết định của Toà án có
quyền tạm đình chỉ việc thi hành bản án hoặc quyết định đó. Do đó, chỉ có thể
quyết định việc tạm đình chỉ thi hành án trong bản kháng nghị hoặc sau khi đã
kháng nghị, không được quyết định tạm đình chỉ thi hành án trước khi kháng
nghị.
IV. VIỆC TRẢ
LẠI ĐƠN YÊU CẦU THI HÀNH ÁN VÀ TRỪ VÀO THU NHẬP CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN (Các Điều 21, 32 Pháp lệnh)
1. Theo tinh thần
của Điều 21 Pháp lệnh thì khi có căn cứ xác định là người phải thi hành án
không có tài sản để thi hành án, Chánh án Toà án nơi thi hành án quyết định trả
lại đơn yêu cầu thi hành án cho người được thi hành án. Khi áp dụng điều này
cần chú ý là Chánh án Toà án nơi thi hành án chỉ ra quyết định trả lại đơn yêu
cầu thi hành án khi có căn cứ xác định là người phải thi hành án thật sự không
có tài sản có thể kê biên hoặc thu nhập có thể khấu trừ để thi hành án.
2. Theo khoản 2
Điều 32 Pháp lệnh thì "việc trừ vào thu nhập" được áp dụng khi thi
hành án về cấp dưỡng hoặc khi đã kê biên tài sản khác của người phải thi hành
án, nhưng tài sản đó không đủ để thi hành án. Tuy nhiên, cần chú ý là nếu người
phải thi hành án không có tài sản để kê biên, nhưng có thu nhập, thì Toà án
cũng có thể trừ vào thu nhập của họ để thi hành án.
V. VIỆC ĐỊNH
GIÁ TÀI SẢN BỊ KÊ BIÊN (Điều 25 Pháp
lệnh)
Theo khoản 2 Điều
25 Pháp lệnh thì khi kê biên tài sản, nếu các bên đương sự không thoả thuận
được về giá hoặc việc định giá có khó khăn, chấp hành viên mời Hội đồng định
giá để định giá sơ bộ tài sản đã kê biên. Quy định này nhằm giúp Chấp hành viên
ước lượng số tài sản cần kê biên tương ứng với mức đủ để thi hành án và thanh
toán các chi phí về thi hành án; đồng thời, nhằm xác định trách nhiệm của người
được giao bảo quản tài sản đã kê biên. Do đó, khi kê biên tài sản, nếu các bên
đương sự không thoả thuận được về giá thì chấp hành viên cần dựa vào ý kiến của
đại diện chính quyền địa phương, người chứng kiến và các bên đương sự để sơ bộ
định giá các tài sản bị kê biên. Chấp hành viên chỉ mời Hội đồng định giá tài
sản trong những trường hợp người được thi hành án đồng ý nhận tài sản kê biên
để thi hành án theo giá do hội đồng định giá quyết định hoặc do tính chất đặc
biệt của tài sản mà chấp hành viên không thể ước giá được. Đối với những trường
hợp này, Hội đồng định giá cần định giá chính thức tất cả các tài sản đã kê
biên của người phải thi hành án để khi bán đấu giá không phải định giá lại, trừ
trường hợp có biến động đáng kể về giá.
VI. BÁN ĐẤU GIÁ
TÀI SẢN ĐÃ KÊ BIÊN (Các Điều 28, 30
Pháp lệnh)
1. Trong thời hạn
không quá 30 ngày kể từ ngày Hội đồng định giá quyết định giá, chấp hành viên
phải tổ chức bán đấu giá. Việc bán đấu giá nhà được tiến hành tại nơi có nhà.
Đối với các tài sản khác chấp hành viên có thể tiến hành bán đấu giá tại nơi có
tài sản hoặc tại một địa điểm thuận lợi khác. Nếu bán đấu giá tại trụ sở Toà án
thì không để ảnh hưởng đến sự hoạt động của cơ quan.
2. Chậm nhất là 7
ngày trước ngày bán đấu giá, chấp hành viên phải niêm yết công khai tại trụ sở
Toà án, Uỷ ban nhân dân nơi có tài sản và thông báo rộng rãi danh mục tài sản,
giá đã định, thời gian và địa điểm bán đấu giá. Đồng thời phải báo cho các bên
đương sự biết. Trong thông báo có thể nêu rõ những yêu cầu đối với người tham
gia đấu giá.
3. Trước khi bán
đấu giá, người phải chịu thi hành án có thể nộp tiền thi hành án để lấy lại tài
sản bị kê biên và người được thi hành án có thể nhận tài sản đã kê biên để thi hành
án theo giá đã định.
4. Khi tổ chức bán
đấu giá, chấp hành viên cần phối hợp với chính quyền địa phương và lực lượng
cảnh sát nhân dân để bảo vệ tài sản và giữ gìn trật tự. Tài sản bán đấu giá
được trưng bày công khai, có ghi rõ số thứ tự và giá đã định. Chấp hành viên
khai mạc cuộc bán đấu giá; giới thiệu đại diện chính quyền, đoàn thể được mời
tham gia chứng kiến việc bán đấu giá, đại diện Viện kiểm sát nhân dân (nếu có)
và công bố thể thức bán đấu giá.
Chấp hành viên lần
lượt bán tài sản của từng người phải thi hành án và công bố giá đã định của
từng tài sản để người mua trả giá. Tài sản được bán cho người trả giá cao nhất.
Nếu không có ai trả giá cao hơn giá đã định thì bán cho người mua theo giá đã
định. Khi số tiền bán tài sản đã đủ để thi hành án và thanh toán các chi phí về
thi hành án thì chấp hành viên ngừng bán và số tài sản còn lại sẽ được trả cho
người phải thi hành án.
Đối với tài sản
không phải là nhà, người mua được tài sản trả tiền ngay tại nơi bán đấu giá;
nhưng nếu tài sản trị giá từ một triệu đồng trở lên thì người mua phải trả ít
nhất là 10% trị giá của tài sản và trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày bán đấu giá
họ phải trả đủ tại Toà án số tiền còn thiếu. Người mua được nhận tài sản ngay
sau khi đã trả đủ tiền. Nếu người mua không trả đủ tiền trong thời hạn này, thì
số tiền nộp trước không được trả lại mà được nộp vào ngân sách nhà nước, trừ
trường hợp có lý do chính đáng được chấp hành viên chấp nhận. Việc bán đấu giá
nhà thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh và thủ tục tổ chức bán
đấu giá trong Thông tư này.
Đối với những tài
sản phải làm thủ tục chuyển dịch quyền sở hữu thì chậm nhất là 3 ngày sau khi
người mua trả đủ tiền, chấp hành viên phải giao cho người mua các giấy tờ cần
thiết để làm thủ tục chuyển dịch quyền sở hữu. Chấp hành viên phải lập biên bản
về việc bán đấu giá tài sản của từng người phải thi hành án, trong đó cần ghi
rõ danh mục tài sản, các giá đã được trả, họ và tên, địa chỉ của người mua được
tài sản... trong biên bản phải có chữ ký của chấp hành viên, những người chứng
kiến và các bên đương sự tham dự cuộc bán đấu giá (nếu có). Trong những trường
hợp không có người mua, người mua trả giá thấp hơn giá đã định hoặc không trả
đủ tiền trong thời hạn quy định, chấp hành viên lập biên bản về việc bán đấu
giá không thành và thông báo cho các đương sự biết.
VII. CÁC CHI
PHÍ VỀ VIỆC CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN
Theo quy định tại
khoản 2 Điều 17 Pháp lệnh thì người phải thi hành án phải chịu các chi phí về
cưỡng chế thi hành án. Các chi phí này bao gồm: tiền công chuyên chở, bảo quản
tài sản, tiền giám định tài sản bị kê biên để gửi giữ, định giá, tiền thuê địa
điểm, phương tiện để tổ chức bán đấu giá... mức chi phí dựa trên cơ sở thực tế,
hợp lý và do chấp hành viên ấn định.
Các chi phí vào
việc tổ chức các cuộc họp với các cơ quan, tổ chức hữu quan để hỗ trợ Toà án
cưỡng chế thi hành án, chi phí hoạt động của Hội đồng thi hành án và việc bồi
dưỡng cho những người tham gia cưỡng chế thi hành án do ngân sách cấp theo chế
độ chung, nên chấp hành viên không được tính vào các chi phí buộc người phải
thi hành án thanh toán.
Chấp hành viên
không được yêu cầu hoặc gợi ý người được thi hành án chịu các chi phí về cưỡng
chế thi hành án thay cho người phải thi hành án. Tuy nhiên, nếu người phải thi
hành án thực sự có khó khăn và người được thi hành án tự nguyện tạo các điều
kiện giúp cho việc thi hành án được tiến hành thuận lợi (như cung cấp nhân lực,
phương tiện vận chuyển...) thì chấp hành viên có thể chấp nhận, nhưng không
được chấp nhận các khoản bồi dưỡng cho những người tham gia cưỡng chế thi hành
án.
VIII. VỀ HIỆU
LỰC THI HÀNH CỦA PHÁP LỆNH
Theo quy định tại
Điều 42 thì Pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1990. Do đó, kể từ ngày
1 tháng 1 năm 1990 trở đi, việc tiến hành các thủ tục thi hành án đối với các
bản án hoặc quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 1990 trở đi,
cũng như các bản án hoặc quyết định có hiệu lực thi hành trước ngày 1 tháng 1
năm 1990, đều phải theo các quy định của Pháp lệnh này.
KT. VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO |
KT. CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO |
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP |
|||||||||
(Đã
ký) |
(Đã
ký) |
(Đã
ký) |
|||||||||
Lê
Thanh Đạo |
Trịnh
Hồng Dương |
Trần
Đông |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét