|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM |
Thông
tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 của
Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quy định
phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 3 năm 2018,
được sửa đổi, bổ sung bởi:
Thông
tư liên tịch số 01/2021/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/11/2021 của
Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao sửa đổi,
bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-
BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quy định phối hợp giữa các cơ quan có thẩm
quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 14 tháng 01 năm 2022.
Căn
cứ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn
cứ Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015;
Bộ
trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
liên tịch quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực
hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.1
Thông
tư liên tịch này quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc
thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Thông
tư liên tịch này áp dụng đối với Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng,
Điều tra viên, Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra, cấp trưởng, cấp phó, Cán bộ
điều tra của Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Công an
xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an và các cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác có liên quan đến việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố.
Trong
Thông tư liên tịch này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1.
Vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là việc cơ quan, người có thẩm quyền giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi tiến hành kiểm tra,
xác minh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự,
thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định và đã xâm hại nghiêm trọng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng trong giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định
sự thật khách quan, toàn diện của nguồn tin về tội phạm.
2.
Dấu hiệu bỏ lọt tội phạm trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố là việc cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố khi tiến hành kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ khởi
tố vụ án hình sự nhưng không ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết
định không khởi tố vụ án hình sự hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Điều 4. Nguyên tắc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố
1.
Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
2.
Mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ,
giải quyết kịp thời theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
và quy định tại Thông tư liên tịch này.
3.
Chỉ những cơ quan và người có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố mới được tiến hành giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố.
4.
Trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố, người có thẩm quyền phải nghiêm chỉnh thực hiện quy định của pháp luật
và chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình. Người làm trái pháp luật
trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
5.
Cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo
tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố về việc giữ bí mật việc tố giác, báo tin về
tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ
khi bị đe dọa.
Điều 5. Trách nhiệm tiếp nhận, thẩm quyền giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm
1.
Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm:
a)
Cơ quan điều tra;
b)
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
c)
Viện kiểm sát các cấp;
d)
Các cơ quan, tổ chức quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 gồm: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm
Công an; Tòa án các cấp; Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác.
2.
Thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
a)
Các cơ quan quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều này, trừ Đội An ninh ở
Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây viết gọn là Đội An ninh Công an cấp huyện) có thẩm
quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra của
mình.
b)
Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong trường hợp phát hiện
Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố
giác, tin báo về tội phạm hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã
yêu cầu bằng văn bản nhưng sau 15 ngày kể từ ngày cơ quan đang thụ lý, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm nhận văn bản yêu cầu mà không được khắc phục.
Điều 6. Trách nhiệm tiếp nhận, thẩm quyền giải quyết kiến
nghị khởi tố
1.
Cơ quan điều tra có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kiến nghị khởi tố theo
thẩm quyền điều tra của mình.
2.
Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận mọi kiến nghị khởi tố và chuyển ngay đến
Cơ quan điều tra có thẩm quyền để giải quyết.
Viện
kiểm sát giải quyết kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều
tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh kiến
nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng
văn bản nhưng sau 15 ngày kể từ ngày cơ quan đang thụ lý, giải quyết kiến nghị
khởi tố nhận văn bản yêu cầu mà không được khắc phục.
Điều 7. Tổ chức tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố
1.
Cơ quan điều tra phải tổ chức trực ban hình sự 24/24 giờ, Viện kiểm sát các cấp
phải tổ chức trực nghiệp vụ 24/24 giờ để tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố (kể cả tin báo về tội phạm trên các phương tiện
thông tin đại chúng); phân loại và chuyển ngay cho các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết. Địa điểm tiếp nhận phải đặt ở nơi thuận tiện, có biển ghi tên cơ quan và
thông báo rộng rãi để mọi người biết.
Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Công an xã, phường,
thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an phải bố trí cán bộ trực để tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm.
Các
cơ quan, tổ chức khác khi có tố giác, tin báo về tội phạm thì phải phân công
người tiếp nhận.
2.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố qua
dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ
tiếp nhận. Nếu cá nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan,
tổ chức trực tiếp đến báo tin về tội phạm thì lập biên bản tiếp nhận và ghi vào
sổ tiếp nhận. Có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận.
Trường
hợp người phạm tội đến tự thú, đầu thú thì thực hiện theo trình tự, thủ tục
theo quy định tại Điều 152 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Điều 8. Phân loại tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố
1.
Cơ quan điều tra sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố phải tiến hành phân loại trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận.
Trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền thì
giải quyết theo quy định tại Điều 9 Thông tư liên tịch này. Nếu có căn cứ xác định
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không thuộc thẩm quyền giải quyết
của cơ quan mình thì chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết trong thời hạn không quá 24 giờ kể
từ khi có căn cứ xác định. Trong trường hợp không thể chuyển ngay thì phải
thông báo bằng các hình thức liên lạc nhanh nhất cho Cơ quan điều tra có thẩm
quyền biết.
2.
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (trừ Đội An ninh
ở Công an cấp huyện) sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm phải tiến
hành phân loại trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận. Trường hợp
tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền thì giải quyết theo quy định tại
Điều 9 Thông tư liên tịch này. Nếu có căn cứ xác định tố giác, tin báo về tội
phạm không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì chuyển ngay tố
giác, tin báo về tội phạm đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết trong
thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi có căn cứ xác định. Trong trường hợp không
thể chuyển ngay thì phải thông báo bằng các hình thức liên lạc nhanh nhất cho
Cơ quan điều tra có thẩm quyền biết.
3.
Viện kiểm sát sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
phải chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết trong thời hạn
không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận. Trong trường hợp không thể chuyển ngay
thì phải thông báo bằng hình thức liên lạc nhanh nhất cho Cơ quan điều tra có
thẩm quyền biết.
4.
Đội An ninh ở Công an cấp huyện khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thì lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển tố
giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho cơ quan có
thẩm quyền trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận. Trong trường hợp
không thể chuyển ngay thì phải thông báo bằng hình thức liên lạc nhanh nhất cho
Cơ quan điều tra có thẩm quyền biết.
5.2
Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an khi tiếp nhận tố giác,
tin báo về tội phạm thì thực hiện như sau:
a) Đối với tố giác, tin báo về hành vi phạm tội quả
tang; tố giác, tin báo về hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
hoặc được dư luận xã hội quan tâm; tố giác, tin báo về tội phạm đã rõ người thực
hiện hành vi phạm tội hoặc rõ người bị tố giác mà có căn cứ cho rằng người đó
có thể bỏ trốn, có căn cứ và cần thiết phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì
Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an lập biên bản tiếp nhận, báo ngay bằng
các hình thức liên lạc nhanh nhất cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền; tổ chức
ngay lực lượng đến bảo vệ hiện trường, lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội
phạm, người bị tố giác, người bị hại, người làm chứng hoặc những người có liên
quan; xác minh, làm rõ nhân thân, lai lịch của người bị tố giác, bị hại và những
người có liên quan; phát hiện, tạm giữ, bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan
đến hành vi có dấu hiệu tội phạm và chuyển tố giác, tin báo về tội phạm kèm
theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời
hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận; đối với các xã ở vùng rừng núi xa
xôi, hẻo lánh, hải đảo, điều kiện đi lại khó khăn thì thời hạn chuyển tố giác,
tin báo về tội phạm không quá 48 giờ kể từ khi tiếp nhận;
b) Đối với tố giác, tin báo về tội phạm không thuộc
trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì Công an xã, phường, thị trấn, Đồn
Công an lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai của người tố giác, báo tin về tội
phạm, lấy lời khai người bị tố giác, người bị hại, người làm chứng và những người
có liên quan; có mặt kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc, vẽ sơ đồ nơi xảy ra vụ việc, bảo vệ hiện trường;
xác minh, làm rõ nhân thân, lai lịch của người bị tố giác, bị hại và những người
có liên quan; xác minh sơ bộ thông tin về hậu quả thiệt hại; phát hiện, tạm giữ,
bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan đến hành vi có dấu hiệu tội phạm và chuyển
ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ
quan điều tra có thẩm quyền. Thời hạn kể từ khi tiếp nhận đến khi chuyển tố
giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều
tra có thẩm quyền không quá 07 ngày.
Trong quá trình xử lý tố giác, tin báo về tội phạm quy
định tại điểm này mà có căn cứ xác định tố giác, tin báo về tội phạm thuộc trường
hợp quy định tại điểm a khoản này thì Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an
thực hiện theo quy định tại điểm a khoản này;
c) Trạm Công an khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm thì lập biên bản tiếp nhận và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm
theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong
thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận;
d) Trường hợp khẩn
cấp, cấp
bách, cần ngăn chặn ngay tội phạm hoặc
cần tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám xét hoặc trưng cầu giám định ngay thì Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an phải báo ngay đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền bằng hình thức liên lạc
nhanh nhất và thực hiện các biện pháp xử
lý kịp
thời theo quy định của Thông tư liên tịch này;
đ) Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện chủ
trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện hướng dẫn, kiểm tra việc thực
hiện hoạt động kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm của Công
an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an.
6.
Tòa án, cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác sau khi nhận được tố giác,
tin báo về tội phạm có trách nhiệm chuyển và thông báo ngay tin đã nhận được
cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Trường hợp khẩn cấp có thể báo tin trực tiếp
qua điện thoại và hình thức khác nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản.
7.
Đối với tin báo về tội phạm được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng
đã xác định được dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan, đơn vị
nào thì cơ quan, đơn vị đó ghi nhận và giải quyết. Trường hợp chưa xác định được
nơi xảy ra sự việc hoặc liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương mà tin báo về tội phạm phản ánh thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp
huyện nơi có trụ sở chính của phương tiện thông tin đại chúng (nơi có địa chỉ
rõ ràng) có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý ban đầu.
Điều 9. Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố
1.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết, Thủ trưởng Cơ quan điều tra trực tiếp
tổ chức, chỉ đạo, phân công Điều tra viên, Cán bộ điều tra thuộc quyền thụ lý,
giải quyết hoặc ra Quyết định phân công Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra tổ chức,
chỉ đạo thụ lý, giải quyết và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp
hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Đối
với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã rõ về
dấu hiệu của tội phạm, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì Cơ quan điều tra
ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không phải ra Quyết định phân công giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thuộc
thẩm quyền giải quyết, cấp trưởng Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra quy định tại khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 trực tiếp chỉ đạo việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, phân công Cán bộ điều tra thuộc quyền hoặc ra Quyết định phân công
cấp phó trong việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thông báo
bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Đối
với tố giác, tin báo về tội phạm sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu của tội phạm,
đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì cấp trưởng ra Quyết định khởi tố vụ án
hình sự và thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm.
3.
Kết thúc quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
cơ quan đã thụ lý, giải quyết phải ra một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Việc
tạm đình chỉ, phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố được thực hiện theo quy định tại Điều 148, Điều 149 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015.
1.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được thực
hiện theo quy định tại Điều 159, Điều 160 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015.
2.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Quyết định phân công giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại
Điều 9 Thông tư liên tịch này, Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tổ chức, chỉ
đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra
viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản cho Cơ quan điều tra, Cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã ra Quyết định phân công giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Đối
với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã rõ về dấu hiệu của tội
phạm mà Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự thì Viện trưởng Viện kiểm sát
trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi
tố, điều tra, phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên hoặc ra Quyết định phân
công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc khởi tố, điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Điều 11. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố
1.
Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không quá
20 ngày kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền nhận được tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố. Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có
nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng (trong trường hợp được Thủ trưởng ủy quyền hoặc phân
công), cấp trưởng, cấp phó (trong trường hợp được cấp trưởng ủy quyền hoặc phân
công) cơ quan đang thụ lý, giải quyết có thể kéo dài thời hạn giải quyết nhưng
không quá 02 tháng kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết.
2.
Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh, chậm nhất 05 ngày trước
khi hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
(trong trường hợp được Thủ trưởng ủy quyền hoặc phân công), cấp trưởng, cấp phó
(trong trường hợp được cấp trưởng ủy quyền hoặc phân công) cơ quan đang thụ lý,
giải quyết phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có
thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh. Trong thời hạn 03 ngày kể từ
ngày nhận được văn bản đề nghị nêu trên, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm
sát có thẩm quyền phải xem xét, quyết định. Trường hợp đề nghị của cơ quan đang
thụ lý, giải quyết là có căn cứ thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát (trong trường hợp được Viện trưởng ủy quyền hoặc phân công) ra Quyết định
gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh; thời hạn gia hạn kiểm tra, xác minh là
không quá 02 tháng kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này. Trường
hợp xét thấy đề nghị của cơ quan đang thụ lý, giải quyết là không có căn cứ thì
Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát (trong trường hợp được Viện trưởng
ủy quyền hoặc phân công) ra văn bản thông báo nêu rõ lý do cho cơ quan đang thụ
lý, giải quyết và cơ quan đang thụ lý, giải quyết phải dừng việc kiểm tra, xác
minh, ra một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều 147
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
3.
Thời hạn giải quyết tiếp trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định tạm
đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ
quan đang thụ lý, giải quyết là không quá 01 tháng kể từ ngày cơ quan đang thụ
lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhận được quyết
định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ.
Thời
hạn giải quyết tiếp trong trường hợp cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố ra quyết định phục hồi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là không quá 01 tháng kể từ ngày
ra quyết định phục hồi.
1.
Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải
quyết của Cơ quan điều tra nhưng có nội dung liên quan đến nhiều đơn vị có chức
năng giải quyết thuộc Cơ quan điều tra thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thể
quyết định tách tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để phân công.
Văn bản phân công phải gửi cho Viện kiểm sát có thẩm quyền.
2.
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mình, vừa
có tội phạm không thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì chuyển đến Cơ quan điều
tra có thẩm quyền toàn bộ nội dung tiếp nhận.
3.
Trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cùng một nội dung được
gửi đến nhiều cơ quan cùng có thẩm quyền giải quyết thì xử lý như sau:
a)
Trường hợp Cơ quan điều tra và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra cùng có thẩm quyền giải quyết thì Cơ quan điều tra có trách nhiệm
giải quyết;
b)
Trường hợp Cơ quan điều tra cấp trên và Cơ quan điều tra cấp dưới cùng có thẩm
quyền giải quyết thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp trên quyết định; trường hợp
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cấp trên và Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cấp dưới cùng có thẩm
quyền giải quyết thì cấp trưởng Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra cấp trên quyết định.
4.
Trong trường hợp cần thiết, cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố đề nghị cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khác tiến hành một số hoạt động
xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Văn bản đề
nghị phải ghi rõ yêu cầu và gửi cho cơ quan có thẩm quyền, Viện kiểm sát cùng cấp
với cơ quan có thẩm quyền đó.
Cơ
quan nhận được đề nghị phải thực hiện đầy đủ những việc được đề nghị trong văn
bản mà cơ quan đang thụ lý, giải quyết đề nghị và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về kết quả thực hiện. Trường hợp không thực hiện được việc thực hiện yêu cầu
thì phải có văn bản nêu rõ lý do gửi cơ quan đã gửi đề nghị.
Viện
kiểm sát cùng cấp với cơ quan được đề nghị có trách nhiệm thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tiến hành hoạt động xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan được đề nghị và phải chuyển ngay kết quả
cho Viện kiểm sát cùng cấp với cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
5.
Trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố thì thực hiện theo quy định tại Điều 150 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015.
1.
Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra phải thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2.
Khi Viện kiểm sát có yêu cầu cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố chuyển hồ sơ có liên quan để Viện kiểm sát trực tiếp
thụ lý, giải quyết thì cơ quan đang thụ lý, giải quyết phải chuyển hồ sơ có
liên quan cho Viện kiểm sát trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát có
yêu cầu.
Trường
hợp cơ quan đang thụ lý giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố không nhất trí với yêu cầu của Viện kiểm sát thì vẫn phải thực hiện nhưng có
quyền kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 10 ngày kể
từ ngày nhận được kiến nghị của cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem
xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã kiến nghị.
Điều 14. Thông báo kết quả tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận phải thông báo bằng văn bản
về kết quả tiếp nhận cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền,
cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố biết.
2.
Khi kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
phải gửi kết quả giải quyết cho Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định
tại các điều 148, 154, 158 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
3.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có trách nhiệm thông báo cho cá nhân, cơ
quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố biết kết quả
giải quyết vụ việc.
4.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải gửi
quyết định phục hồi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền
và cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
1.
Khi người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi
tố và người bị hại có yêu cầu, đề nghị về những vấn đề liên quan đến việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì Cơ quan điều tra, Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát
trong phạm vi trách nhiệm của mình giải quyết yêu cầu, đề nghị đó và báo cho họ
biết kết quả. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu, đề nghị thì Cơ quan điều tra,
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc Viện kiểm
sát phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
2.
Trường hợp không đồng ý với kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra, Cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc Viện kiểm sát thì người
tham gia tố tụng có quyền khiếu nại. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại được
thực hiện theo quy định tại Chương XXXIII của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Điều 16. Chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt vi phạm hành
chính
1.
Đối với vụ việc tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do cơ quan có
thẩm quyền thụ lý, giải quyết, nhưng sau đó ra quyết định không khởi tố vụ án
hình sự, nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính, thì trong thời hạn 03
ngày, kể từ ngày ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, cơ quan đã ra quyết
định phải sao hồ sơ để lưu và chuyển hồ sơ, tài liệu (bản chính), tang vật,
phương tiện của vụ vi phạm (nếu có) và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến
người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
2.
Việc xử phạt vi phạm hành chính được căn cứ vào hồ sơ vụ vi phạm do cơ quan đã
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố chuyển đến. Trường hợp
cần thiết, người có thẩm quyền xử phạt tiến hành xác minh thêm tình tiết để làm
căn cứ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Thông
tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 3 năm 2018.
Thông
tư liên tịch này thay thế Thông tư liên tịch số
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ trưởng Bộ Công
an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn
thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Các
cơ quan, đơn vị liên quan của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm
thi hành và tổ chức thực hiện hướng dẫn tại Thông tư liên tịch này.
Trong quá trình thực hiện
Thông tư liên tịch này nếu có vướng mắc, các cơ quan, đơn vị liên quan phản ánh
về Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để có hướng dẫn kịp thời.
BỘ CÔNG AN Số: 20/VBHN-BCA Nơi nhận: |
XÁC THỰC VĂN BẢN HỢP NHẤT
|
______________________
1 Thông tư liên
tịch số 01/2021/TTLT-BCA-BQP- BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC sửa đổi, bổ sung một số
điều của Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP- BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC
ngày 29/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ
Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao quy định phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện
một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có căn cứ ban hành như sau:
“Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự ngày 27 tháng 11 năm
2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự ngày 12
tháng 11 năm 2021;
Căn cứ Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự ngày 26
tháng 11 năm 2015;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 22
tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật ngày 18 tháng 6 năm 2020;
Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng
Bộ Tài chính, Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch sửa đổi, bổ sung một số điều của
Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC ngày 29 tháng 12
năm 2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực
hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.”
2 Khoản này được sửa đổi,
bổ sung theo quy định tại Điều 1 của Thông tư liên tịch số
01/2021/TTLT-BCA-BQP- BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC sửa đổi, bổ sung một số điều của
Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP- BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày
29/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài
chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao quy định phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một
số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có hiệu lực thi hành kể từ ngày 14
tháng 01 năm 2022.
3 Điều 2, Điều 3 Thông tư
liên tịch số 01/2021/TTLT-BCA-BQP- BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC sửa đổi, bổ sung một
số điều của Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-
BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quy định phối hợp giữa các cơ quan có thẩm
quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 14 tháng 01 năm 2022 quy định như sau:
“Điều 2. Hiệu lực thi hành
Thông
tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 14 tháng 01 năm
2022.
Điều
3. Trách nhiệm thi hành
Các cơ quan, đơn vị liên quan của Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm thi hành và tổ chức thực hiện Thông
tư liên tịch này.
Trong
quá trình thực hiện Thông tư liên tịch này nếu có vướng mắc, các cơ quan, đơn vị liên quan phản ánh về Bộ Công an,
Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao để có hướng dẫn kịp thời.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét