VI- TỔNG HỢP HÌNH PHẠT (các Điều 41, 42, và 43 BLHS)
Cần chú ý Bộ luật hình sự đã quy định cách tổng hợp hình phạt khác nhau khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 41) và tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 42).
A- Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 41).
1. Khi xét xử cùng một lần người phạm nhiều tội, cần chú ý là Tòa án phải quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó quyết định hình phạt chung cho các tội.
Khi định tội danh và quyết định hình phạt, phải ghi rõ tên tội, điều luật, khoản nào, điểm nào của điều luật đã được áp dụng vì điều này sẽ có ảnh hưởng quan trọng về sau đối với việc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, thời hiệu thi hành án, thủ tục xóa án v.v…
2. Việc quyết định hình phạt chung trong trường hợp phạm nhiều tội (*)có thể thực hiện bằng hai cách: thu hút hình phạt nhẹ vào hình phạt nặng nhất; hoặc cộng toàn bộ hình phạt đã tuyên về từng tội, hay là cộng vào hình phạt nặng nhất một phần các hình phạt đã tuyên. Hai cách đó đều có thể thực hiện nhưng cần chú ý là Bộ luật hình sự đã quy định rõ mức cao nhất của hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất của “khung hình phạt” mà luật quy định đối với tội nặng nhất đã phạm và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên. Thí dụ: Bị cáo phạm 3 tội: cướp tài sản xã hội chủ nghĩa, bị phạt 10 năm tù theo khoản 1 Điều 129; trộm tài sản riêng của công dân bị phạt 6 năm tù theo khoản 2 Điều 155; và hiếp dâm, bị phạt 3 năm tù theo khoản 1 Điều 112. Nếu cộng toàn bộ hình phạt thì bị cáo bị phạt 19 năm tù. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hình phạt cao nhất theo khoản 1 Điều 129 về tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa là tội nặng nhất là 15 năm tù, nên Tòa án chỉ có thể quyết định phạt hình chung cao nhất là 15 năm tù.
B- Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 42 BLHS)
1. Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại xét xử về một tội đã phạm trước khi có bản án này (*)(như tội phạm sau lại được xử trước, còn tội phạm trước lại được xử sau) thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung, và hình phạt chung không được vượt mức cao nhất của khung hình phạt mà luật quy định đối với tội nặng nhất đã phạm và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên như đã nói trong điểm 2 nói trên.
Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt chung.
2. Trong trường hợp một người đang chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó “cộng” với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất mà luật quy định cho “loại hình phạt” đã tuyên chứ không bị hạn chế ở mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất. Thí dụ: một kẻ phạm tội đã bị phạt 10 năm tù về tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa, theo khoản 1 Điều 129 nhưng mới chấp hành hình phạt được 3 năm thì y phạm tội mới, do đó, hình phạt chưa chấp hành còn lại là 7 năm tù. Y phạm 2 tội mới là: tội trộm tài sản của công dân, bị phạt theo khoản 2 Điều 155 là 7 năm tù và tội hiếp dâm, bị phạt theo khoản 2 Điều 112 là 6 năm tù. Như vậy là trong trường hợp này, hình phạt chung cao nhất đối với bị cáo không bị hạn chế ở mức cao nhất của khung hình phạt luật định đối với tội nặng nhất (ở đây là khoản 1 Điều 129 về tội cướp, mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù) mà có thể là 7 + 7 + 6 = 20 năm tù (vì đây là mức cao nhất của loại hình phạt tù giam có thời hạn).
Khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội hoặc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, chỉ được tổng hợp hình phạt trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên. Thí dụ: không được tổng hợp nhiều hình phạt tù có thời hạn thành tù chung thân.
+ Trong trường hợp hình phạt khác loại thì tổng hợp theo Điều 43 Bộ luật hình sự, cụ thể là:
a) Đối với hình phạt chính, nếu hình phạt cao nhất đã tuyên là tử hỉnh, tù chung thân hoặc tù 20 năm thì lấy hình phạt cao nhất là hình phạt chung.
Nếu các hình phạt đã tuyên gồm: cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỹ luật của quân đội và tù có thời hạn thì chuyển hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội thành hình phạt tù để quyết định hình phạt chung. Cứ một ngày cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội thành một ngày tù.
Chú ý: khi tổng hợp hình phạt (án tù cũng như cải tạo không giam giữ) phải trừ thời gian người có án đã thực sự chấp hành, chỉ tính thời gian còn lại.
b) Đối với hình phạt bổ sung, Tòa án quyết định một hình phạt chung trong giới hạn luật quy định về mỗi loại hình phạt ấy. Thí dụ: đối với cả hai tội đều có hình phạt là quản chế thì Tòa án không phải quyết định hình phạt quản chế riêng cho mỗi tội mà tuyên một thời hạn quản chế chung cho cả hai tội, tức là 1 đến 5 năm quản chế.
c) Phạt tiền thì cộng các khoản phạt tiền của các tội hoặc của các bản án.
3. Đối với người chưa thành niên phạm tội, có tội phạm trước khi đủ 18 tuổi, có tội phạm sau khi đủ 18 tuổi thì tổng hợp hình phạt theo quy định của điều 64 và điều 65 Bộ luật hình sự.
4. Án treo là án phạt tù nhưng được miễn chấp hành hình phạt tù nếu người bị kết án không phạm tội mới trong thời gian thử thách. Vì vậy, nếu họ phạm tội mới trong thời gian thử thách mà đáng phải phạt tù thì không được hưởng án treo một lần nữa.
Tuy nhiên, có thể tổng hợp hai bản án treo nếu tội xảy ra sau lại được xử trước và được hưởng án treo, rồi sau đó mới phát hiện ra tội phạm trước và tội này cũng được hưởng án treo. Trong trường hợp này, sau khi quyết định hình phạt tù cho hưởng án treo và thời gian thử thách cho tội xử sau, Tòa án quyết định chung hình phạt tù cho hưởng án treo và thời gian thử thách cho cả hai bản án. Tổng số thời gian thử thách không được quá 5 năm.
5. Chỉ tổng hợp hình phạt của bản án đang xử với hình phạt của bản án khác đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, các cấp sơ thẩm, phúc thẩm cần chú ý những trường hợp sau đây:
- Nếu bị cáo bị đưa ra xét xử trong hai vụ án khác nhau thì cấp sơ thẩm cần đợi hết hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án trước rồi mới xử vụ án sau. Nếu bản án trước không bị kháng cáo, kháng nghị thì khi xử vụ án sau, Tòa án sơ thẩm quyết định hình phạt chung của 2 bản án.
- Nếu bản án trước đã bị kháng cáo, kháng nghị thì khi xử vụ án sau cấp sơ thẩm chỉ quyết định hình phạt đối với tội được xử sau mà không quyết định hình phạt chung của 2 bản án. Việc quyết định hình phạt chung của 2 bản án sẽ do cấp phúc thẩm giải quyết bằng cách tổng hợp hình phạt của bản án trước với hình phạt của bản án sau (bị kháng cáo, kháng nghị hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị).
- Nếu bản án truớc đã được phúc thẩm rồi mà cấp sơ thẩm mới xử vụ án sau thì cấp sơ thẩm quyết định ngay hình phạt chung của 2 bản án.
6. Nếu Tòa án cấp huyện xét xử mà hình phạt chung cao hơn mức hình phạt do Tòa án đó có quyền quyết định thì Tòa án cấp huyện không được xét xử và vụ án phải do Tòa án cấp tỉnh xét xử (*)
_Xem toàn bộ văn bản>>>>【Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986】
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét