QUỐC HỘI
Số: Không số |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm
1992 |
HIẾN PHÁP
NƯỚC CỘNG HOÀ CHỦ NGHIÃ XÃ HỘI VIỆT NAM NĂM 1992
LỜI NÓI ĐẦU
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao
động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc
nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường bất khuất của dân tộc và xây
dựng nên nền văn hiến Việt Nam.
Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc
đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ hy sinh, làm Cách mạng tháng Tám
thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc
lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Tiếp đó, suốt mấy chục năm, nhân
dân các dân tộc nước ta đã liên tục chiến đấu, với sự giúp đỡ quý báu của bè
bạn trên thế giới, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng,
lập nên những chiến công oanh liệt, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ và
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân và đế quốc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Ngày 2 tháng 7 năm 1976 Quốc hội nước Việt Nam
thống nhất đã quyết định đổi tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cả
nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ra sức xây dựng đất nước,
kiên cường bảo vệ Tổ quốc đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế.
Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980.
Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp
năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới.
Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ
cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối
quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
NƯƠC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM - CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn
bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá
tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt,
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu
số.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của
Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và
đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại
biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên hoạt động có hiệu quả.
Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp,
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và
pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Tổ quốc Việt Nam là thiêng
liêng, bất khả xâm phạm.
Mọi âm mưu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị theo pháp luật.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng
ổn định lâu dài.
Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai
thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước
giao theo quy định của pháp luật.
Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản
xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp
tác xã hoạt động có hiệu quả.
Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển.
Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên
doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định
của pháp luật.
Tài sản hợp pháp của cá
nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá.
Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi
thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường.
Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam
định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
Mọi hoạt động kinh tế, xã
hội và quản lý Nhà nước phải thực hành chính sách tiết kiệm.
Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản
xuất và người tiêu dùng.
Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và
huỷ hoại môi trường.
VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA
HỌC, CÔNG NGHỆ
Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm
cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục.
Văn học, nghệ thuật góp phần
bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cao đẹp của người Việt Nam.
Nhà nước đầu tư phát triển văn hoá, văn học, nghệ
thuật, tạo điều kiện để nhân dân được thưởng thức những tác phẩm văn học, nghệ
thuật có giá trị; bảo trợ để phát triển các tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ
thuật.
Nhà nước phát triển các hình thức đa dạng của hoạt
động văn học, nghệ thuật, khuyến khích các hoạt động văn học, nghệ thuật quần
chúng.
Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch
sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh.
Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu.
Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề,
năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên
góp phần làm cho dân giầu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục: giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiêp, giáo dục đại học và sau
đại học, phổ cập giáo dục tiểu học, xoá nạn mù chữ; phát triển các hình thức
trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các
nguồn đầu tư khác.
Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát
triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó
khăn.
Các đoàn thể nhân dân, trước hết là Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng
nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.
Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học,
công nghệ quốc gia; xây dựng nền khoa học, công nghệ tiên tiến; phát triển đồng
bộ các ngành khoa học nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường
lối, chính sách và pháp luật, đổi mới công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất,
nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh
tế; góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia.
Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức
khoẻ cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số.
Nghiêm cấm tổ chức và tư nhân chữa bệnh, sản xuất,
buôn bán thuốc chữa bệnh trái phép gây tổn hại cho sức khoẻ của nhân dân.
Nhà nước và xã hội phát
triển nền thể dục, thể thao dân tộc, khoa học và nhân dân.
Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể
dục, thể thao; quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học;
khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức tổ chức thể dục, thể thao tự
nguyện của nhân dân, tạo các điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các
hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, chú trọng hoạt động thể thao chuyên
nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao.
Nhà nước và xã hội phát
triển du lịch, mở rộng hoạt động du lịch trong nước và du lịch quốc tế.
BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân.
Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân
và an ninh nhân dân nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức
mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và
công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định.
QUYỀN VÀ NGHIÃ VỤ CƠ BẢN
CỦA CÔNG DÂN
Công dân nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.
Quyền của công dân không
tách rời nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải
làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội.
Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật
quy định.
Mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật.
Lao động là quyền và nghĩa
vụ của công dân.
Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều
việc làm cho người lao động.
Nhà nước ban hành chính
sách, chế độ bảo hộ lao động.
Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền
lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và
những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm
xã hội khác đối với người lao động.
Công dân có quyền tự do kinh
doanh theo quy định của pháp luật.
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
của công dân.
Học tập là quyền và nghĩa vụ
của công dân.
Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.
Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều
hình thức.
Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo
điều kiện học tập để phát triển tài năng.
Nhà nước có chính sách học phí, học bổng.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật
được học văn hoá và học nghề phù hợp.
Công dân có quyền được hưởng
chế độ bảo vệ sức khoẻ.
Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm
viện phí.
Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh
phòng bệnh và vệ sinh công cộng.
Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ,
sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ
bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm.
Công dân nữ và nam có quyền
ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ,
xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương
ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà
nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn
hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao
trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo
phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác
để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác,
học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.
Gia đình là tế bào của xã
hội.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ
một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công
dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ.
Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối
xử giữa các con.
Trẻ em được gia đình, Nhà
nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.
Những người và gia đình có công với nước được khen
thưởng, chăm sóc.
Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương
tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.
Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được
pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án
nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của công dân.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái
pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự.
Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt
hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.
Công dân có quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người
đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo
đảm an toàn và bí mật.
Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ
thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy
định của pháp luật.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem
xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm
minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh
dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc
lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Nhà nước bảo hộ quyền lợi
chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Nhà nước tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở
nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê
hương, đất nước.
Công dân phải trung thành
với Tổ quốc.
Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.
Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ
thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây
dựng quốc phòng toàn dân.
Công dân có nghĩa vụ tôn
trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng.
Công dân có nghĩa vụ đóng
thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội
và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan
hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn
bộ hoạt động của Nhà nước.
Quốc hội có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa
đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo
Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch
nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao;
3- Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước;
5- Quyết định chính sách dân tộc
của Nhà nước;
6- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền
địa phương;
8- Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan
ngang Bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính -
kinh tế đặc biệt;
9- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
10- Quyết định đại xá;
11- Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang
nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp Nhà nước khác; quy định huân
chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước;
12- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy
định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và
an ninh quốc gia;
14- Quyết định việc trưng cầu ý dân.
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc
hội là năm năm.
Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội
khoá mới phải được bầu xong. Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội do luật
định.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần
ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, thì Quốc hội quyết định rút
ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình.
Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ
do Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập.
Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ
hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định
của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường.
Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới được triệu tập
chậm nhất là hai tháng kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và do Chủ tịch Quốc
hội khoá trước khai mạc và chủ tọa cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội
khoá mới.
Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và
dự án luật ra trước Quốc hội.
Thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật
do luật định.
Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được công bố chậm
nhất là mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội là
cơ quan thường trực của Quốc hội.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm có:
- Chủ tịch Quốc hội;
- Các Phó Chủ tịch Quốc hội;
- Các ủy viên.
Số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội
quyết định. Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành
viên Chính phủ.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội của mỗi khoá Quốc hội thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Uỷ ban
thường vụ Quốc hội mới.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội;
2- Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ
họp Quốc hội;
3- Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
4- Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao;
5- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát
hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ
bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội;
6- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân
dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi
ích của nhân dân;
7- Chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng
dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động
của các đại biểu Quốc hội;
11- Thực hiện quan hệ đối ngoại
của Quốc hội;
12- Tổ chức trưng cầu ý dân theo
quyết định của Quốc hội.
Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ
theo sự phân công của Chủ tịch.
Quốc hội bầu Hội đồng dân
tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên.
Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội
những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân
tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có
đồng bào dân tộc thiểu số.
Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân
tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng dân tộc.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham dự các phiên họp
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn
việc thực hiện chính sách dân tộc.
Hội đồng dân tộc còn có những nhiệm vụ, quyền hạn khác
như các Uỷ ban của Quốc hội quy định tại Điều 95.
Hội đồng dân tộc có một số thành viên làm việc theo
chế độ chuyên trách.
Quốc hội bầu các Uỷ ban của
Quốc hội.
Các Uỷ ban của Quốc hội nghiên cứu, thẩm tra dự án
luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc
hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc
phạm vị hoạt động của Uỷ ban.
Mỗi Uỷ ban có một số thành viên làm việc theo chế độ
chuyên trách.
Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu và trả
lời những kiến nghị của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri,
chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện
vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ
tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời
những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện
các quyền đó.
Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực
hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ
họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời
trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả
lời bằng văn bản.
Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời những vấn đề mà đại
biểu Quốc hội quan tâm. Người phụ trách của các cơ quan, tổ chức, đơn vị này có
trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn
luật định.
Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm
giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ
Quốc hội xét và quyết định.
Đại biểu Quốc hội phải dành
thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ
trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có
trách nhiệm cung cấp tài liệu cần thiết mà đại biểu yêu cầu và tạo điều kiện để
đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu.
Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc
hội.
Chủ tịch nước do Quốc hội
bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc
hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới.
Chủ tịch nước có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
2- Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ
chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh;
3- Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
5- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố
quyết định đại xá;
8- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao;
11- Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi
quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam;
12- Quyết định đặc xá.
Hội đồng quốc phòng và an
ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các ủy viên.
Chủ tịch nước đề nghị danh sách thành viên Hội đồng
quốc phòng và an ninh trình Quốc hội phê chuẩn. Thành viên Hội đồng quốc phòng
và an ninh không nhất thiết là đại biểu Quốc hội.
Hội đồng quốc phòng và an ninh động viên mọi lực lượng
và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc.
Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc hội có thể giao
cho Hội đồng quốc phòng và an ninh những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt.
Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ
tập thể và quyết định theo đa số.
Chủ tịch nước có quyền tham
dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự
các phiên họp của Chính phủ.
Chủ tịch nước ban hành
lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Phó Chủ tịch nước do Quốc
hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ và có thể
được Chủ tịch uỷ nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ.
Khi Chủ tịch nước không làm
việc được trong một thời gian dài, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch.
Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước, thì Phó Chủ
tịch quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của
Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm
việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng
cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo
công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và
báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân
công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng
ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Chính phủ có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ
và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn
hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; hướng
dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp
trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo
luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước;
2- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong
các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công
dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật
trong nhân dân;
3- Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước
Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
4- Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền
kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và
bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá,
giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội và ngân sách Nhà nước;
5- Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn
nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ
môi trường;
6- Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng
các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình
trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước;
7- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của
Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng
trong bộ máy Nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
9- Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc,
chính sách tôn giáo;
10- Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị
hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
11- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để
các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.
Thủ tướng Chính phủ có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên
Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;
3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và
chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương;
4- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết
định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết
định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà
nước cấp trên;
5- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và
các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường
vụ Quốc hội bãi bỏ;
6- Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các
phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải
giải quyết.
Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ
phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
Căn cứ vào Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ
tịch nước, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các
thành viên khác của Chính phủ, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ ra quyết
định, chỉ thị, thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả
các ngành, các địa phương và cơ sở.
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ
BAN NHÂN DÂN
Các đơn vị hành chính của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã;
thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh,
thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở
các đơn vị hành chính do luật định.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động nhân
dân thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân
dân, động viên nhân dân tham gia quản lý Nhà nước.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các
cơ quan Nhà nước ở địa phương. Người phụ trách cơ quan này có trách nhiệm tiếp
đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân lãnh đạo, điều hành hoạt động
của Uỷ ban nhân dân.
Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương,
Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi
hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân
và các văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị
quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân
dân cấp mình bãi bỏ những nghị quyết đó.
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ
thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính
quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định
thành lập Toà án đặc biệt.
ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân
để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân
theo quy định của pháp luật.
Nhiệm kỳ của Chánh án Toà
án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của
Thẩm phán, chế độ bầu cử và nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân ở Toà án nhân dân
các cấp do luật định.
Khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Toà án nhân dân xét xử công
khai, trừ trường hợp do luật định.
Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa
số.
Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các
đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Toà án nhân dân tối cao là
cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các
Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự.
Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà
án đặc biệt và các toà án khác, trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành
lập Toà án đó.
Chánh án Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm
sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong
phạm vi trách nhiệm do luật định.
Việc thành lập Uỷ ban kiểm sát, những vấn đề Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà
Uỷ ban kiểm sát phải thảo luận và quyết định theo đa số do luật định.
Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự các quân khu và khu vực
do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
QUỐC KỲ, QUỐC HUY, QUỐC
CA, THỦ ĐÔ, NGAỲ QUỐC KHÁNH
Quốc ca nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài "Tiến quân ca".
Thủ đô nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.
Ngày tuyên ngôn độc lập 2
tháng 9 năm 1945 là ngày Quốc khánh.
HIỆU LỰC CỦA HIẾN
PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
Bản Hiến pháp này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nan khoá VIII, kỳ họp thứ 11 nhất trí thông qua trong phiên
họp ngày 15 tháng 4 năm 1992, hồi 11 giờ 45 phút.
|
Lê Quang Đạo (Đã
ký) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét